Mua bán đất bằng giấy viết tay có xin cấp giấy chứng nhận được không?
Mua bán đất (theo qui định của pháp luật là chuyển nhượng quyền sử dụng đất) bằng giấy viết tay là việc hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không được công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật. Việc không thể thực hiện được công chứng chứng thực là do nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng chung qui lại có lí do phổ biến là người bán chưa được công nhận quyền sử dụng đất và cấp giấy chứng nhận.
Bài viết dưới đây sẽ phân tích các góc độ pháp lý của việc mua bán đất bằng giấy tay.
Việc mua bán được thực hiện trước ngày 01/8/2024
* Thửa đất chưa được cấp Giấy chứng nhận mà mua bán đất bằng giấy viết tay
Khoản 5 Điều 137 luật đất đai năm 2024 qui định cấp Giấy chứng nhận đối với trường hợp đã chuyển quyền sử dụng đất nhưng đến trước ngày luật này có hiệu lực thi hành mà có một trong các giấy tờ quy định tại khoản 1, khoản 2, khoản 3, khoản 4 Điều 137 kèm theo giấy tờ về việc chuyển quyền sử dụng đất theo quy định như sau:
“…
Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều này mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển quyền sử dụng đất, nhưng đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật và đất đó không có tranh chấp thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất; việc thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật.
…”.
Theo đó, nếu đã chuyển nhượng trên thực tế (một bên trả tiền, bên còn lại giao đất nhưng chưa sang tên) thì không phải làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất nữa mà phải thực hiện thủ tục đăng ký, cấp Giấy chứng nhận lần đầu.
Cơ quan tiếp nhận hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận lần đầu không được yêu cầu người nhận chuyển nhượng nộp hợp đồng, văn bản chuyển nhượng có công chứng hoặc chứng thực theo quy định.
Trường hợp đang sử dụng đất do nhận chuyển nhượng bằng giấy viết tay mà muốn được cấp Giấy chứng nhận thì người nhận chuyển nhượng phải chuẩn bị hồ sơ và thực hiện theo thủ tục cấp Giấy chứng nhận lần đầu (cấp mới) được quy định tại khoản 1 Điều 42 nghị định 101/2024/NĐ-CP như sau:
“…
Các trường hợp sử dụng đất sau đây do nhận chuyển quyền sử dụng đất không đúng quy định của pháp luật nhưng có chữ ký của các bên liên quan mà chưa được cấp Giấy chứng nhận và không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này thì người đang sử dụng đất thực hiện thủ tục đăng ký đất đai, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất lần đầu theo quy định của Luật Đất đai và quy định tại Nghị định này mà không phải làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất; cơ quan tiếp nhận hồ sơ không được yêu cầu người nhận chuyển quyền sử dụng đất nộp hợp đồng, văn bản chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp giấy tờ về việc nhận thừa kế quyền sử dụng đất theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 28 của Nghị định này
a) Sử dụng đất do nhận chuyển quyền sử dụng đất trước ngày 01 tháng 7 năm 2014 đối với trường hợp không có giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại Điều 137 của Luật Đất đai;
b) Sử dụng đất do nhận chuyển quyền sử dụng đất trước ngày 01 tháng 8 năm 2024 mà có giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại Điều 137 của Luật Đất đai;
c) Sử dụng đất do nhận chuyển quyền sử dụng đất của người nhận thừa kế quyền sử dụng đất quy định tại khoản 4 Điều 45 của Luật Đất đai.
…“
Như vậy, trường hợp đang sử dụng đất do nhận chuyển nhượng bằng giấy viết tay, đất chưa được cấp giấy chứng nhận mà thuộc 03 (ba) trường hợp sử dụng đất theo quy định này thì thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận lần đầu (cấp mới).
* Thửa đất đã được cấp Giấy chứng nhận mà mua bán đất bằng giấy viết tay
Căn cứ khoản 2 Điều 42 nghị định 101/2024/NĐ-CP, trường hợp người đang sử dụng đất do nhận chuyển nhượng trước ngày 01/8/2024 mà bên nhận chuyển nhượng chỉ có Giấy chứng nhận của bên chuyển nhượng hoặc hợp đồng, giấy tờ về chuyển nhượng theo quy định thì người nhận chuyển nhượng nộp đơn đề nghị cấp Giấy chứng nhận và các giấy tờ về quyền sử dụng đất hiện có để có Giấy chứng nhận mới.
Chuyển nhượng từ ngày 01/8/2024 đến nay
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là loại hợp đồng phải đáp ứng điều kiện về nội dung và hình thức thì mới có hiệu lực. Hay nói cách khác, phải có công chứng hoặc chứng thực (điều kiện về hình thức) thì mới có hiệu lực.
Điểm a khoản 3 Điều 27 Luật Đất đai 2024 qui định:
“…
Việc công chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản thực hiện các quyền của người sử dụng đất được thực hiện như sau:
Hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất phải được công chứng hoặc chứng thực, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản này.
…”.
Theo đó, chỉ trừ trường hợp một hoặc các bên chuyển nhượng là tổ chức hoạt động kinh doanh bất động sản mới không bắt buộc phải công chứng hoặc chứng thực.
Lưu ý: Mặc dù không công chứng hoặc chứng thực nhưng một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất 2/3 nghĩa vụ trong hợp đồng thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực (căn cứ khoản 2 Điều 129 bộ luật dân sự năm 2015).
Tuy nhiên, việc yêu cầu Tòa án công nhận hợp đồng chuyển nhượng không công chứng hoặc chứng thực có hiệu lực không phải là một thủ tục hành chính thông thường và còn nhiều vấn đề phải làm rõ trong yêu cầu Tòa án công nhận. Do đó, khi chuyển nhượng các bên phải công chứng hoặc chứng thực để tránh xảy ra tranh chấp.
Việc mua bán đất bằng giấy viết tay vào mỗi thời điểm khác nhau sẽ chịu sự điều chỉnh của pháp luật qua các giai đoạn khác nhau. Đồng thời, mỗi giấy viết tay đều tồn tại những rủi ro cần phải tháo gỡ cũng là khác nhau. Khi cần xử lý về vấn đề mua bán đất bằng giấy tay thì quí khách hàng có thể tham vấn ý kiến của luật sư trước khi đưa ra quyết định cuối cùng.