Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự

năng lực hình sự

1. Năng lực trách nhiệm hình sự là gì?

Năng lực trách nhiệm hình sự là khả năng về mặt tâm thần và ý chí của một cá nhân để chịu trách nhiệm trước pháp luật hình sự khi thực hiện hành vi phạm tội. Đây là điều kiện bắt buộc để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một người. Theo đó, người phạm tội chỉ có thể bị xử lý hình sự nếu tại thời điểm thực hiện hành vi, họ có đầy đủ khả năng nhận thức được hành vi của mình và làm chủ được hành vi đó.

1.1 Khả năng nhận thức

Khả năng nhận thức là khả năng hiểu biết, phân biệt hành vi đúng – sai, hợp pháp – trái pháp luật, có hại hay không có hại cho xã hội. Một người có năng lực nhận thức sẽ hiểu được rằng hành vi mình thực hiện là nguy hiểm, có thể dẫn đến hậu quả tiêu cực và bị xử lý. Nếu không có khả năng nhận thức, người đó sẽ không hiểu được hậu quả pháp lý hoặc đạo đức từ hành vi của mình, và do đó không thể bị coi là có trách nhiệm hình sự.

1.2 Khả năng điều khiển hành vi

Khả năng điều khiển hành vi là khả năng kiểm soát bản thân, làm chủ ý chí, kiềm chế hành vi trái pháp luật và lựa chọn hành vi phù hợp với chuẩn mực xã hội. Người có khả năng điều khiển hành vi sẽ có thể quyết định không thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, dù có động cơ hoặc điều kiện thuận lợi để thực hiện nó. Đây là yếu tố thể hiện sự tự chủ, làm cơ sở để pháp luật buộc cá nhân phải chịu trách nhiệm nếu họ cố ý phạm tội.

 2. Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự

Theo quy định tại Điều 21 Bộ luật Hình sự 2015 (Sửa đổi, bổ sung 2017) quy định về trường hợp người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội không phải chịu trách nhiệm hình sự nếu tại thời điểm thực hiện hành vi đó, họ đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi.

Để áp dụng quy định này, người phạm tội phải thỏa mãn đồng thời hai điều kiện: Thứ nhất, mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh lý đặc biệt có ảnh hưởng đến hoạt động tâm thần; Thứ hai, bệnh đó làm người này mất hoàn toàn khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi vào đúng thời điểm thực hiện hành vi phạm tội. Việc xác định tình trạng này không dựa vào cảm quan mà phải thông qua kết luận giám định pháp y tâm thần.

Lưu ý: Nếu người phạm tội chỉ bị hạn chế một phần năng lực thì họ vẫn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nhưng có thể được hưởng các tình tiết giảm nhẹ. Chỉ khi mất hoàn toàn khả năng nhận thức hoặc điều khiển thì mới được miễn trách nhiệm hình sự theo Điều 21.

3. Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự và tuổi chịu trách nhiệm hình sự

Tiêu chí Tuổi chịu trách nhiệm hình sự Năng lực trách nhiệm hình sự
Khái niệm Là độ tuổi mà từ đó một người có thể phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội. Là khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của một người tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội.
Căn cứ pháp lý Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015 Điều 21 Bộ luật Hình sự 2015
Yếu tố đánh giá Dựa vào độ tuổi của người phạm tội tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội. Dựa vào tình trạng tâm thần, ý thức, năng lực hành vi của người phạm tội tại thời điểm thực hiện hành vi.
Phạm vi áp dụng Người đủ 14 tuổi trở lên mới có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự (với điều kiện cụ thể từng độ tuổi). Áp dụng với mọi độ tuổi, miễn là có hành vi phạm tội nhưng bị hạn chế hoặc mất năng lực nhận thức, điều khiển hành vi.
Ví dụ – Người 13 tuổi phạm tội trộm cắp: không bị truy cứu hình sự. – Người 15 tuổi phạm tội giết người: có thể bị truy cứu hình sự. – Người 30 tuổi, bị tâm thần và mất khả năng nhận thức khi phạm tội giết người: không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Tính chất loại trừ Nếu chưa đủ tuổi thì dù có năng lực nhận thức cũng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu mất năng lực nhận thức thì dù đủ tuổi vẫn không phải chịu trách nhiệm hình sự.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *