Kính thưa quí khách hàng và thân chủ,
Việc một bị cáo có điều kiện để hưởng án treo hay không còn phụ thuộc rất nhiều vào từng tình tiết có trong hồ sơ của vụ án? Với bài viết dưới đây, chúng tôi xin cung cấp cho quí khách hàng về các điều kiện mà pháp luật đặt ra để một bị cáo được hưởng án treo, hay nói cách khác là về phương diện lý thuyết.
Điều kiện hưởng án treo theo quy định của pháp luật
Án treo được qui định tại điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ dung năm 2017. Đã được hướng dẫn cụ thể tại Điều 2 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo (Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP) và khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15/4/2022 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP (Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP) đã cụ thể hóa các điều kiện để người phạm tội được hưởng án treo bao gồm 5 điều kiện như được nói dưới đây:
1.1. Về mức phạt tù
Mức phạt tù không quá 03 năm. Đối với quy định này, pháp luật không quy định cụ thể về độ tuổi của người phạm tội cũng như tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội nên có thể hiểu, đối với bất kỳ đối tượng phạm tội nào, kể cả người phạm tội là người chưa thành niên, khi bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng hay tội đặc biệt nghiêm trọng trong trường đã được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà hình phạt tù không quá 03 năm thì căn cứ vào nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù thì Tòa án có thể xem xét cho hưởng án treo. Mặt khác, cũng có thể hiểu, người phạm tội khi bị xét xử trong cùng một lần về nhiều tội mà khi tổng hợp hình phạt không quá 03 năm tù cũng được coi là đáp ứng điều kiện về “bị xử phạt tù không quá 03 năm”. Điều kiện về mức phạt tù được coi là điều kiện tiên quyết để làm cơ sở cho Tòa án đánh giá các điều kiện tiếp theo khi xem xét cho người phạm tội hưởng án treo. Trong trường hợp người phạm tội không thỏa mãn điều kiện này, các điều kiện tiếp theo sẽ không được Tòa án xem xét.
1.2. Về nhân thân người phạm tội
Nhân thân là điều kiện thứ hai để Tòa án xem xét cho người phạm tội được hưởng án treo. Theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP, người phạm tội phải là người “có nhân thân tốt”. Nhân thân người phạm tội là tổng hợp những đặc điểm, dấu hiệu thể hiện bản chất của người đó. Trong cơ chế hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội đóng vai trò quan trọng giúp luận giải nguyên nhân của tội phạm từ phía chủ quan người phạm tội để xây dựng các biện pháp phòng ngừa tội phạm phù hợp với từng nhóm người, nhóm nhân cách. Một người phạm tội được coi là có nhân thân tốt “nếu ngoài lần phạm tội này, người phạm tội luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú, nơi làm việc”. Tuy nhiên, Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP đã có sự sửa đổi, cụ thể: Việc xác định người phạm tội có “nhân thân tốt” là không cần thiết, vì vậy, điểm a khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP đã lược bỏ nội dung này và chỉ quy định “người bị xử phạt tù có nhân thân là ngoài lần phạm tội này, người phạm tội chấp hành chính sách, pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú, nơi làm việc”. Bên cạnh đó, quy định về “người đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị xử lý kỷ luật mà thời gian được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 06 tháng” đã được sửa đổi thành “người đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị xử lý kỷ luật mà tính đến ngày phạm tội lần này đã quá thời hạn”. Như vậy, quy định về nhân thân của người phạm tội tại Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP đã thể hiện sự linh hoạt hơn so với Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng. Đồng thời, Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP cũng bổ sung 02 trường hợp về nhân thân của người phạm tội, cụ thể: “Đối với người bị kết án mà khi định tội đã sử dụng tình tiết “đã bị xử lý kỷ luật” hoặc “đã bị xử phạt vi phạm hành chính” hoặc “đã bị kết án” và có đủ các điều kiện khác thì cũng có thể cho hưởng án treo” và “đối với người bị kết án mà vụ án được tách ra để giải quyết trong các giai đoạn khác nhau (tách thành nhiều vụ án) và có đủ các điều kiện khác thì cũng có thể cho hưởng án treo”.
Những tình tiết về nhân thân vừa là điều kiện “cần”, vừa có ý nghĩa quan trọng khi xem xét cho người phạm tội hưởng án treo. Nhân thân phản ánh khả năng tự cải tạo, giáo dục của người bị kết án trở thành người có ích cho xã hội. Khi người phạm tội cảm thấy ăn năn, hối lỗi và thành khẩn nhận tội thì họ có nhiều khả năng tự giáo dục, cải tạo hơn các đối tượng khác. Đây cũng là đặc điểm có liên quan đến việc đạt được mục đích của hình phạt, vì mục đích của hình phạt là cải tạo, giáo dục những người bị kết án, giáo dục các thành viên khác trong xã hội tuân thủ pháp luật, cũng như hỗ trợ cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm đạt hiệu quả[2].
1.3. Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là một trong những điều kiện “cần” để đạt được mục đích của hình phạt và để hạn chế việc phải sử dụng các biện pháp ngăn chặn có tính nghiêm khắc cao[3]. Việc quy định các tình tiết giảm nhẹ trong quá trình truy cứu trách nhiệm hình sự đã tạo tiền đề quan trọng cho quá trình cảm hóa người phạm tội. Do vậy, một trong những điều kiện được hưởng án treo là phải có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, khoản 3 Điều 2 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP quy định: “Có từ 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự”. Như vậy, có thể hiểu, mức độ nguy hiểm của các hành vi phạm tội được áp dụng tại quy định này là không cao, do đó, Tòa án có thể xem xét cho người phạm tội được hưởng án treo.
Bên cạnh đó, quy định này cũng đã thể hiện được sự khoan hồng, nhân đạo của Nhà nước đối với người phạm tội khi quy định trường hợp có tình tiết tăng nặng thì số tình tiết giảm nhẹ phải nhiều hơn từ 02 tình tiết và chỉ cần có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong số 22 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 gồm: (i) Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm; (ii) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả; (iii) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng; (iv) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết; (v) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội; (vi) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra; (vii) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra; (viii) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn; (ix) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; (x) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức; (xi) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra; (xii) Phạm tội do lạc hậu; (xiii) Người phạm tội là phụ nữ có thai; (xiv) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên; (xv) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng; (xvi) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình; (xvii) Người phạm tội tự thú; (xviii) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; (xix) Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án; (xx) Người phạm tội đã lập công chuộc tội; (xxi) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác; (xxii) Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.
1.4. Về nơi cư trú hoặc nơi làm việc của người bị kết án
Khoản 4 Điều 2 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP quy định: “Có nơi cư trú rõ ràng hoặc nơi làm việc ổn định để cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giám sát, giáo dục”. Nơi cư trú của người bị kết án phải “rõ ràng”, nơi làm việc phải “ổn định”, tính “rõ ràng”, “ổn định” phải được thể hiện cụ thể trong việc xác định địa chỉ mà người đó cư trú hoặc làm việc. Theo đó, nơi làm việc ổn định được hướng dẫn xác định như sau: “Nơi làm việc ổn định là nơi người phạm tội làm việc có thời hạn từ 01 năm trở lên theo hợp đồng lao động hoặc theo quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền”. Hoặc có thể xem xét đến nơi cư trú, “nơi cư trú rõ ràng là nơi tạm trú hoặc thường trú có địa chỉ được xác định cụ thể theo quy định của Luật Cư trú mà người được hưởng án treo về cư trú, sinh sống thường xuyên sau khi được hưởng án treo”. Theo quy định của Luật Cư trú năm 2020, nơi cư trú của công dân bao gồm nơi thường trú và nơi tạm trú. Trường hợp không xác định được nơi thường trú, nơi tạm trú của công dân do không đủ điều kiện đăng ký thường trú, đăng ký tạm trú thì nơi cư trú được xác định là nơi ở hiện tại của người đó; trường hợp không có địa điểm chỗ ở cụ thể thì nơi ở hiện tại được xác định là đơn vị hành chính cấp xã nơi người đó đang thực tế sinh sống[5].
1.5. Xét thấy người phạm tội không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù và khi xem xét, quyết định cho bị cáo hưởng án treo Tòa án phải xem xét thận trọng, chặt chẽ các điều kiện để bảo đảm việc cho hưởng án treo đúng quy định của pháp luật, đặc biệt là đối với các trường hợp hướng dẫn tại khoản 2, khoản 4 và khoản 5 Điều 3 Nghị quyết này
Theo quy định của Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP, để được hưởng án treo, người phạm tội ngoài việc phải đáp ứng đủ 03 điều kiện về mức hình phạt, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ như trên còn phải được Tòa án xem xét đối với điều kiện “nếu người phạm tội có khả năng tự cải tạo và việc cho họ hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội; không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”. Đây là quy định dẫn đến một số luồng quan điểm khác nhau và có nhiều vướng mắc trong việc áp dụng trên thực tế, đòi hỏi khi quyết định hình phạt, hội đồng xét xử cần phải cân nhắc kỹ. Việc quyết định hình phạt này có thể làm cho hội đồng xét xử dễ “tùy nghi” cho hưởng án treo mà không xem xét yếu tố phòng ngừa chung và răn đe đối với tình hình tội phạm, từ đó không đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm[6].
Việc xem xét cho người bị kết án được hưởng án treo cũng cần phải xem xét có thuộc một trong các trường hợp không cho hưởng án treo hay không. Tại Điều 3 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP và khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP đã quy định về 06 trường hợp người phạm tội không được hưởng án treo gồm:
1. Người phạm tội là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, côn đồ, dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tính chất chuyên nghiệp, lợi dụng chức vụ quyền hạn để trục lợi, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng;
2. Người thực hiện hành vi phạm tội bỏ trốn và đã bị các cơ quan tiến hành tố tụng truy nã hoặc yêu cầu truy nã, trừ trường hợp đã ra đầu thú trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử;
3. Người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách; người đang được hưởng án treo bị xét xử về một tội phạm khác thực hiện trước khi được hưởng án treo;
4. Người phạm tội bị xét xử trong cùng một lần về nhiều tội, trừ một trong các trường hợp sau đây:
a) Người phạm tội là người dưới 18 tuổi;
b) Người phạm tội bị xét xử và kết án về 02 tội đều là tội phạm ít nghiêm trọng hoặc người phạm tội là người giúp sức trong vụ án đồng phạm với vai trò không đáng kể;
5. Người phạm tội 02 lần trở lên, trừ một trong các trường hợp sau:
a) Người phạm tội là người dưới 18 tuổi;
b) Các lần phạm tội đều là tội phạm ít nghiêm trọng;
c) Các lần phạm tội, người phạm tội là người giúp sức trong vụ án đồng phạm với vai trò không đáng kể;
d) Các lần phạm tội do người phạm tội tự thú;
6. Người phạm tội thuộc trường hợp tái phạm, tái phạm nguy hiểm”.
Trong một số trường hợp, mặc dù người phạm tội đã đáp ứng đầy đủ các điều kiện được ưởng án treo như đã phân tích ở trên, tuy nhiên họ lại không được hưởng án treo. Có thể lý giải dựa theo quy định tại Điều 3 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP và khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP như sau: Người phạm tội không phân biệt đủ điều kiện hay không đủ điều kiện được hưởng án treo theo quy định của pháp luật mà thuộc một trong các trường hợp không cho hưởng án treo thì không được hưởng án treo.