Di chúc là gì?
Theo quy định Điều 624 Bộ luật Dân sự 2015, Thì “Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết” Như vậy, có thể hiểu di chúc là một hành vi pháp lý đơn phương chỉ một phía (Người lập di chúc) thể hiện ý chí không cần sự phản hồi từ người được hưởng.
Ý chí này phải dựa trên nguyên tắc là hoàn toàn tự nguyện, minh mẫn, không bị ép buộc hay dọa dẫm và trước khi chết người lập di chúc có toàn quyền định đoạt tài sản.
Phân loại di chúc
Di chúc bằng văn bản:
Theo quy định tại điều 628 Bộ luật Dân sự 2015, di chúc bằng văn bản có 04 hình thức như sau:
Thứ nhất: Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng (Điều 633 Bộ luật Dân sự 2015), trong trường hợp này, người lập di chúc phải tự viết tay toàn bộ nội dung của dị chúc và ký tên. Mặt dù không cần người làm chứng nhưng người lập di chúc phải đủ minh mẫn và tuân thủ các điều kiện hợp pháp của pháp luật;
Thứ hai: Di chúc bằng văn bản có người làm chứng (Điều 634 Bộ luật Dân sự 2015) trường hợp này, nếu người lập di chúc không thể tự viết tay, hoặc đánh máy thì có thể nhờ người khác viết thay, đánh máy thay nhưng với điều kiện có ít nhất 02 người trực tiếp chứng kiến sự việc trên và có chữ ký xác nhận của hai người chứng kiến;
Cuối cùng: Di chúc bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực (Điều 635 Bộ luật Dân sự 2015) thì lập di chúc có thể yêu cầu công chứng hoặc chứng thực (tại UBND xã, phường nơi thực hiện chứng thực) bản di chúc. Hành vi này nhằm mục đích giúp tăng giá trị pháp lý và hạn chế rủi ro, tranh chấp.
Di chúc miệng:
Theo quy định tại Điều 629 Bộ luật Dân sự 2015, “Trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa và không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể lập di chúc miệng.
Sau 03 tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng mà người lập di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị hủy bỏ” Tức là, di chúc miệng chỉ được lập khi tính mạng bị cái chết đe dọa mà không kịp lập di chúc bằng văn bản (Ví dụ: A tai nạn giao thông, trước khi chết nói lại với người thân là “tôi sẽ để lại toàn bộ di sản cho B”, trong trường hợp này, đây là di chúc miệng.
Tuy nhiên, di chúc miệng chỉ có hiệu lực tạm thời. Nếu sau 03 tháng, kể từ ngày lập di chúc miệng nếu người lập còn sống, minh mẫn thì di chúc không còn hiệu lực pháp luật.
Người kế thừa không phụ thuộc vào nội dung di chúc gồm những ai
Theo quy định của Điều 644 Bộ luật Dân sự 2015, những chủ thể được bảo vệ bao gồm “Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:
a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.”
Đây là một quy định ngoại lệ quan trọng trong chế định thừa kế theo di chúc. Theo đó, một người có quan hệ đặc biệt gần gủi với người lập di chúc sẽ vẫn được hưởng di sản mặt dù không được nêu tên trong di chúc. Mục đích của quy định này nhằm bảo vệ những người yếu thế (con chưa thành niên, người già, người mất khả năng lao động,…). Bên cạnh đó, điều này hạn chế người lập di chúc cố tình truất quyền thừa kế của người thân trong gia đình.
Giả sử: Ông A lập di chúc để lại toàn bộ tài sản cho bạn thân là ông B, không chia phần nào cho con trai là C (mới 10 tuổi). Khi ông A mất, mặc dù ông B là người được ghi trong di chúc, nhưng C vẫn được hưởng 2/3 suất thừa kế theo pháp luật, do C là con chưa thành niên và được bảo vệ theo Điều 644 Luật này.
Ngoài ra, bên cạnh đó, có 02 trường hợp không được hưởng quyền theo khoản 1 đó là: Người từ chối nhận di sản theo Điều 620 BLDS; Người không có quyền hưởng di sản theo Điều 621 (ví dụ: người cố ý giết người để được hưởng di sản, ngược đãi người để lại di sản…).