1/ Phạm pháp là gì?
Phạm pháp (còn có tên gọi khác “Vi phạm pháp luật”) được hiểu là hành vi trái pháp luật, có lỗi và do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện. Hậu quả của vi phạm pháp luật là xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.
Các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ:
Thứ nhất, quan hệ nhân thân: Là các quan hệ gắn liền với thân thể, danh dự, nhân phẩm, quyền sống, quyền tự do cá nhân;
Thứ hai, quan hệ tài sản: Liên quan đến quyền sở hữu, sử dụng, định đoạt tài sản,… (Ví dụ: quan hệ vay tiền, mua bán nhà đất,…);
Thứ ba, quan hệ lao động: quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động;
Thứ tư, quan hệ hôn nhân gia đình: Bao gồm quan hệ vợ chồng, cha mẹ, quyền nuôi con, cấp dưỡng;
Thứ năm, quan hệ hình sự: Phát sinh khi có hành vi phạm tội (Ví dụ: Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự người trộm cắp, giết người,…)
Như vậy, các quan hệ xã hội được nhà nước bảo vệ là những mối quan hệ thiết yếu trong đời sống, đã được luật quy định rõ ràng, và bất kỳ hành vi nào xâm hại đến các quan hệ này đều bị xem là phạm pháp và có thể bị xử lý.
2/ Quyền nuôi con dưới 3 tuổi
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân và Gia đình 2014, “Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.” Đây là một nguyên tắc ưu tiên thể hiện tính nhân đạo và phù hợp với đặc điểm phát triển của trẻ nhỏ, bởi ở tuổi này, trẻ rất cần sự gắn bó, chăm sóc gần gũi từ mẹ. Trong trường hợp đặc biệt, quyền nuôi con không thuộc về mẹ nếu: Người mẹ không đủ điều kiện trực tiếp chăm sóc con (Ví dụ: bị bệnh nặng, không có nơi ở, đang thi hành án,…).
Tóm lại người mẹ được ưu tiên quyền nuôi con dưới 3 tuổi sau ly hôn theo pháp luật, tuy nhiên quyền này không tuyệt đối mà còn phụ thuộc vào điều kiện thực tế của người mẹ, sự thỏa thuận giữa cha mẹ, quyết định cuối cùng của tòa án.
3/ Khi nào mẹ có thể bị hạn chế quyền nuôi con dưới 18 tuổi?
Theo quy định tại Điều 85 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 và Điều 8 Nghị quyết số 01/2024/NQ-HĐTP, việc hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên được áp dụng trong những trường hợp cụ thể nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em.
Theo đó, Tòa án có thể quyết định hạn chế quyền của cha mẹ khi họ có một trong các hành vi vi phạm sau:
Thứ nhất, bị kết án về tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con với lỗi cố ý: Đây là những tội thuộc Chương XIV Bộ luật Hình sự, như cố ý gây thương tích, đánh đập, xúc phạm con,…với bản án đã có hiệu lực pháp luật;
Thứ hai, vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con: Ví dụ như bỏ mặc con không nơi nương tựa, khiến con phải tự xoay sở dẫn đến hành vi lệch chuẩn như trộm cắp;
Thứ ba, phá tán tài sản của con: Tức là tự ý sử dụng, hủy hoại, bán hoặc tặng cho tài sản riêng của con mà không nhằm mục đích phục vụ quyền lợi của con;
Thứ tư, có lối sống đồi trụy: Sống buông thả, trái thuần phong mỹ tục như tham gia hoạt động mại dâm, nghiện ngập… gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường sống và phát triển của con;
Thứ năm, xúi giục hoặc ép buộc con làm việc trái pháp luật, đạo đức: Như ép con bỏ học, trộm cắp, buôn bán hoặc vận chuyển ma túy.
Tùy từng hành vi, Tòa án có thể ra quyết định không cho cha mẹ thực hiện một hoặc nhiều quyền như: Trông nom, chăm sóc, giáo dục con. Trường hợp, nếu cha mẹ đã thực hiện được một nửa thời hạn hạn chế theo quyết định của Tòa án và trong thời gian đó không tái phạm, thì Tòa án có thể xem xét rút ngắn thời hạn hạn chế.Quy định này cho thấy pháp luật luôn đặt lợi ích và sự phát triển toàn diện của trẻ lên hàng đầu, đồng thời vẫn tạo điều kiện cho cha mẹ có cơ hội sửa sai và khôi phục vai trò làm cha, mẹ khi đã khắc phục được hậu quả và thay đổi hành vi.