Người không phải chủ sở hữu tài sản có quyền định đoạt tài sản khi nào?

1/ Gây thiệt hại tài sản trong tình thế cấp thiết có được xem là xâm phạm quyền sở hữu tài sản?

Theo quy định tại Điều 171 Bộ luật Dân sự 2015,Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh một nguy cơ đang thực tế đe dọa trực tiếp lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác mà không còn cách nào khác là phải có hành động gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn chặnNhư vậy, theo quy định, tình thế cấp thiết là tình huống có nguy cơ thiệt hại thực tế, đang xảy ra hoặc sắp xảy ra một cách trực tiếp, buộc người có hành vi phải lựa chọn giữa gây ra một thiệt hại nhỏ hơn để ngăn chặn một thiệt hại lớn hơn. Trong trường hợp đó, hành vi tuy có thể gây ảnh hưởng đến tài sản, quyền lợi của người khác nhưng không bị coi là hành vi vi phạm pháp luật, nếu đáp ứng đủ điều kiện của “tình thế cấp thiết”

Theo đó, Luật còn quy định quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu trong tình thế cấp thiết như sau: “Trong tình thế cấp thiết, chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản không được cản trở người khác dùng tài sản của mình hoặc cản trở người khác gây thiệt hại đối với tài sản đó để ngăn chặn, làm giảm mối nguy hiểm hoặc thiệt hại lớn hơn có nguy cơ xảy raTức là, khi rơi vào tình thế cấp thiết, chủ sở hữu hoặc người có quyền đối với tài sản không được phép ngăn cản người khác sử dụng tài sản của mình để ngăn chặn nguy cơ lớn hơn. Điều này nhấn mạnh tính ưu tiên bảo vệ lợi ích công cộng và tính mạng, sức khỏe con người hơn là quyền tài sản trong một số hoàn cảnh đặc biệt

Giả sử, một căn nhà đang bốc cháy, và để ngăn ngọn lửa lan sang nhà bên cạnh, lực lượng cứu hỏa phải phá tường nhà hàng xóm để tiếp cận hiện trường. Trong trường hợp này: Hành vi phá tường là hành vi gây thiệt hại, nhưng là cần thiết để ngăn chặn nguy hiểm lớn hơn (Cháy lan, thiệt hại về người và tài sản). Chủ sở hữu bức tường không được ngăn cản, bởi đây là hành động hợp pháp trong tình thế cấp thiết. Sau đó, nếu có yêu cầu, chủ nhà bị phá tường có thể được bồi thường thiệt hại, nhưng không thể khởi kiện về việc xâm phạm quyền sở hữu.

Tuy nhiên, Luật cũng rất công bằng đối chủ sở hữu hoặc người có quyền đối với tài sản, không để bất kỳ một cá nhân nào chịu thiệt hại, cụ thể “Gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không phải là hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản. Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản bị thiệt hại trong tình thế cấp thiết được bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 595 của Bộ luật nàyNhư vậy, nếu tài sản của chủ sở hữu bị thiệt hại do hành vi trong tình thế cấp thiết, thì người gây thiệt hại có thể không bị coi là xâm phạm quyền sở hữu, nhưng chủ sở hữu tài sản vẫn có quyền yêu cầu bồi thường theo Điều 595 BLDS. Tuy nhiên, mức độ bồi thường sẽ căn cứ vào thiệt hại thực tế và tính chất hợp lý của hành vi gây thiệt hại.

Như vậy, người không phải chủ sở hữu tài sản có quyền định đoạt tài sản trong những tình huống đặt biệt quyền sỡ hữu có thể bị hạn chế tạm thời nhằm để bảo vệ lợi ích lớn hơn như lợi ích công cộng, tính mạng và sức khỏe con người. Bên cạnh đó, pháp luật vẫn đảm bảo công bằng khi cho phép chủ sở hữu người có quyền đối với tài sản) được bồi thường thiệt hại ở mức hợp lý theo quy định của pháp luật.  

2/ Người không phải là chủ sở hữu tài sản có quyền định đoạt tài sản khi nào?

Theo quy định tại Điều 195 Bộ luật Dân sự 2015, “Người không phải là chủ sở hữu tài sản chỉ có quyền định đoạt tài sản theo ủy quyền của chủ sở hữu hoặc theo quy định của luậtNhư vậy, ngoài tình thế cấp thiết, một số trường hợp khác mà người không phải chủ sở hữu vẫn có thể định đoạt tài sản bao gồm:

 

Theo ủy quyền của chủ sở hữu (Có sự đồng ý của chủ sở hữu):

 Khi chủ sở hữu làm giấy ủy quyền hợp pháp cho người khác (thường là hợp đồng ủy quyền theo Điều 562 Bộ luật Dân sự 2015), người được ủy quyền có quyền thay mặt chủ sở hữu thực hiện hành vi định đoạt tài sản và phạm vi định đoạt phải đúng với nội dung và giới hạn của giấy ủy quyền. Như vậy, trong trường hợp này, người không phải là chủ sở hữu có quyền sử dụng hoặc định đoạt tài sản theo chỉ định của chủ sở hữu.

Theo quy định của luật:

Trong một số trường hợp, pháp luật quy định đặc biệt cho phép người không phải chủ sở hữu vẫn có quyền định đoạt tài sản để bảo vệ lợi ích chung hoặc lợi ích hợp pháp của người khác. Thường phổ biến là người giám hộ, người đại diện theo pháp luật, người thi hành án, hoặc người được chỉ định quản lý tài sản trong thủ tục phá sản, thi hành án dân sự…

Ví dụ: Một người bị tuyên mất năng lực hành vi dân sự, tài sản thuộc quyền sở hữu của họ sẽ do người giám hộ hợp pháp quản lý. Nếu cần thiết, người giám hộ có thể bán tài sản để phục vụ lợi ích của người được giám hộ, theo đúng trình tự luật định.

Tóm lại, Người không phải là chủ sở hữu chỉ có thể định đoạt tài sản nếu: Có ủy quyền hợp pháp từ chủ sở hữu hoặc được luật quy định rõ ràng (ví dụ: giám hộ, trong tình thế cấp thiết,…). Mọi hành vi định đoạt không thuộc hai trường hợp trên đều không có hiệu lực pháp lý, thậm chí có thể bị coi là xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *