1. Khái niệm về hành vi vi phạm về đất đai
Hành vi vi phạm pháp luật về đất đai là hành vi của cá nhân, tổ chức thực hiện không đúng hoặc không thực hiện nghĩa vụ theo quy định của pháp luật đất đai, làm xâm phạm đến chế độ sở hữu toàn dân về đất đai, quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất, ảnh hưởng đến trật tự quản lý nhà nước trong lĩnh vực đất đai. Theo quy định tại Điều 239 Luật Đất đai năm 2024, “Người có hành vi vi phạm pháp luật về đất đai thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử lý vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.”
Hành vi vi phạm pháp luật về đất đai có một số đặc điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất, đây là hành vi trái với các quy định của pháp luật đất đai hiện hành, thể hiện qua hành động như lấn, chiếm, sử dụng sai mục đích hoặc chuyển nhượng, thế chấp đất không đúng quy định, hoặc thể hiện dưới dạng không hành động như không đăng ký đất đai, không sử dụng đất theo thời gian quy định.
Thứ hai, chủ thể thực hiện hành vi vi phạm có thể là cá nhân, hộ gia đình, tổ chức, doanh nghiệp, hoặc cả cán bộ, công chức trong hệ thống quản lý đất đai.
Thứ ba, hành vi này gây ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân sử dụng đất hợp pháp.
Thứ tư, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, người vi phạm có thể bị xử lý hành chính, xử lý kỷ luật, truy cứu trách nhiệm hình sự và phải bồi thường thiệt hại nếu có hậu quả thực tế, theo đúng quy định tại Điều 239 Luật Đất đai năm 2024.
2. Phân loại hành vi vi phạm về đất đai
Căn cứ theo Điều 1 Nghị định 123/2024/NĐ-CP mới hướng dẫn thi hành Luật Đất đai năm 2024, các hành vi vi phạm pháp luật về đất đai bao gồm cả hành vi đã kết thúc và đang được thực hiện, được chia thành các nhóm chính như sau:
Hành vi sử dụng đất sai mục đích hoặc không đúng quy định: Đây là nhóm vi phạm phổ biến và dễ phát hiện nhất trong thực tiễn. Người sử dụng đất không tuân thủ đúng mục đích đã được Nhà nước giao hoặc cho thuê đất, hoặc tự ý chuyển mục đích mà không xin phép cơ quan có thẩm quyền.
Ví dụ: Một cá nhân sử dụng đất trồng lúa để xây nhà xưởng sản xuất mà không có quyết định cho phép chuyển mục đích sử dụng từ cơ quan quản lý đất đai. Trường hợp này sẽ bị xử phạt theo Điều 8 Nghị định 123/2024/NĐ-CP
Ngoài ra, hành vi không đưa đất vào sử dụng trong thời hạn pháp luật quy định (bỏ hoang đất) cũng thuộc nhóm này. Chẳng hạn, một tổ chức được giao đất để trồng rừng nhưng bỏ không trong hơn 24 tháng sẽ bị xử lý theo Điều 24 của Nghị định 123/2024/NĐ-CP
Hành vi lấn, chiếm, hủy hoại đất: Người vi phạm có thể tự ý chiếm dụng đất công, đất chưa được giao hoặc thuê hợp pháp, hoặc thực hiện các hành vi gây thiệt hại đến chất lượng đất.
Giả sử: Một hộ gia đình xây dựng tường rào lấn sang phần đất công viên ven đường, dù chưa được cấp sổ đỏ cho diện tích đó, được xem là hành vi lấn chiếm đất và bị xử lý theo Điều 13 Nghị định 123/2024/NĐ-CP
Tương tự, nếu một cơ sở đổ hóa chất, chất thải rắn làm suy giảm khả năng sử dụng đất thì có thể bị xử lý về hành vi hủy hoại đất theo Điều 14 Nghị định 123/2024/NĐ-CP.
Hành vi vi phạm quy định về chuyển quyền sử dụng đất: Nhóm hành vi này liên quan đến việc cá nhân, tổ chức thực hiện các giao dịch như chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, cho thuê quyền sử dụng đất không đủ điều kiện, sai đối tượng hoặc không đúng trình tự, thủ tục theo quy định pháp luật.
Giả định: Một cá nhân chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng vẫn làm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho người khác. Đây là hành vi chuyển nhượng đất khi không đủ điều kiện và bị xử lý theo Điều 17 Nghị định 123/2024/NĐ-CP. Hay trường hợp một doanh nghiệp nước ngoài nhận chuyển nhượng đất nông nghiệp mà không có phương án sử dụng đất phù hợp cũng bị xử lý theo Điều 19 Nghị định 123/2024/NĐ-CP.
Hành vi không đăng ký đất đai hoặc không thực hiện thủ tục hành chính đất đai:
Theo quy định pháp luật, người sử dụng đất có nghĩa vụ đăng ký quyền sử dụng đất, chuyển mục đích, kê khai biến động. Nếu không thực hiện, dù không gây thiệt hại trực tiếp, vẫn bị xử phạt hành chính. Một người dân nhận chuyển nhượng đất từ người khác nhưng không thực hiện thủ tục đăng ký biến động trong thời hạn 30 ngày sẽ bị xử phạt theo Điều 16 của Nghị định 123/2024/NĐ-CP.
Hành vi cản trở quyền sử dụng đất hợp pháp của người khác: Người có hành vi cản trở hoặc gây khó khăn không chính đáng đối với người đang sử dụng đất hợp pháp cũng bị xử lý.
Ví dụ: Một cá nhân cố tình rào lối đi chung để ngăn cản hộ liền kề tiếp cận phần đất của mình, mặc dù lối đi đó đã được xác lập theo quy hoạch hoặc thỏa thuận. Hành vi này thuộc về vi phạm được xử lý theo Điều 15 Nghị định 123/2024/NĐ-CP.
Hành vi vi phạm trong cung cấp dịch vụ đất đai và thông tin đất đai: Các tổ chức, cá nhân hành nghề đo đạc, thẩm định giá đất, tư vấn pháp lý đất đai nếu không đủ điều kiện hoạt động, cung cấp thông tin sai lệch hoặc không cung cấp thông tin khi được yêu cầu sẽ bị xử lý nghiêm.
Một văn phòng đăng ký đất đai từ chối cung cấp hồ sơ cho cơ quan thanh tra mà không có lý do hợp pháp sẽ bị xử lý theo Điều 28 Nghị định 123/2024/NĐ-CP. Hoặc một doanh nghiệp đo đạc đất đai chưa được cấp phép mà vẫn hành nghề là vi phạm theo Điều 29 Nghị định 123/2024/NĐ-CP.
Hành vi vi phạm nghĩa vụ quản lý đất đai của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền:
Cơ quan nhà nước, cán bộ được giao quản lý đất đai nếu không thực hiện đúng chức trách, buông lỏng quản lý, gây thất thoát, lấn chiếm đất thì sẽ bị xử lý theo trách nhiệm cá nhân hoặc tổ chức.
Cán bộ địa chính xã không kiểm tra hiện trạng sử dụng đất, để người dân xây dựng trái phép kéo dài mà không xử lý kịp thời sẽ bị xem xét xử lý trách nhiệm theo Điều 33 Nghị định 123/2024/NĐ-CP.
Hành vi vi phạm pháp luật đất đai có phạm vi rất rộng, từ cá nhân, hộ gia đình cho đến tổ chức trong nước, nước ngoài, và kể cả cán bộ có thẩm quyền. Việc phân loại rõ các nhóm hành vi là cơ sở quan trọng để áp dụng đúng mức phạt, biện pháp xử lý và ngăn ngừa các hành vi sai phạm trong quản lý, sử dụng đất.
3. Biện pháp xử lý người vi phạm pháp luật về đất đai
Người có hành vi vi phạm pháp luật trong quản lý và sử dụng đất đai có thể bị xử lý theo nhiều hình thức khác nhau, tùy theo tính chất và mức độ vi phạm. Theo quy định tại Điều 240 Luật Đất đai 2024, nếu cá nhân là cán bộ, công chức khi thi hành công vụ mà “lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn làm trái với quy định của pháp luật trong công tác quy hoạch, giao đất, cấp Giấy chứng nhận, bồi thường, tái định cư…” thì có thể bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự tùy mức độ vi phạm (khoản 1 Điều 240).
Tình huống như: một cán bộ địa chính huyện cố tình hợp thức hóa hồ sơ để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người không đủ điều kiện nhằm trục lợi thì có thể bị truy tố về tội “lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ” theo Điều 356 Bộ luật Hình sự 2015 (SĐ,BS 2017).
Ngoài ra, Luật cũng đặt ra trách nhiệm rất rõ ràng đối với các cơ quan quản lý. Điều 241 Luật Đất đai 2024 quy định Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm “phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời những vi phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai tại địa phương theo thẩm quyền” (khoản 1 Điều 241). Đồng thời, công chức địa chính và cán bộ quản lý đất đai các cấp phải chủ động kiểm tra, đề xuất xử lý vi phạm, tránh để kéo dài gây hậu quả. Chẳng hạn, khi phát hiện một hộ gia đình tự ý lấn chiếm hành lang đường thủy để xây dựng nhà ở, cán bộ địa chính xã có trách nhiệm lập biên bản vi phạm, báo cáo Chủ tịch UBND xã để ra quyết định xử phạt và buộc tháo dỡ công trình.
Đặc biệt, để tăng tính minh bạch và giám sát, Luật quy định quyền của người dân trong việc kiến nghị xử lý công chức, viên chức có vi phạm. “Tổ chức, cá nhân khi phát hiện công chức, viên chức thuộc cơ quan quản lý đất đai vi phạm trong quản lý đất đai thì có quyền gửi đơn kiến nghị đến người có thẩm quyền” như Chủ tịch UBND cấp xã hoặc thủ trưởng cơ quan quản lý đất đai (khoản 1 Điều 242 Luật Đất đai 2024). Nếu người dân phát hiện cán bộ địa chính xã cố tình gây khó khăn trong quá trình đo đạc, họ có thể kiến nghị trực tiếp tới Chủ tịch UBND xã để được giải quyết theo đúng thẩm quyền trong thời hạn 30 ngày.
Như vậy, hệ thống pháp luật đất đai hiện hành không chỉ xử lý người vi phạm bằng các hình thức hành chính, kỷ luật, hoặc hình sự mà còn thiết lập rõ trách nhiệm của người thi hành công vụ và cơ chế phản ánh từ người dân nhằm đảm bảo việc quản lý, sử dụng đất đai minh bạch, đúng pháp luật.