Quy định về tội ra quyết định trái pháp luật

tội ra quyết định trái pháp luật

Trong hoạt động tố tụng và thi hành án, mỗi quyết định được ban hành đều có thể tác động trực tiếp đến tài sản, quyền tự do và quyền lợi hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Tuy nhiên, khi người có thẩm quyền biết rõ quyết định của mình là trái pháp luật nhưng vẫn cố ý ban hành, hậu quả không chỉ dừng lại ở một sai sót nghiệp vụ mà còn có thể xâm phạm nghiêm trọng đến quyền con người, lợi ích của Nhà nước và trật tự pháp luật. Nhằm ngăn chặn tình trạng lạm quyền trong hoạt động tư pháp, Bộ luật Hình sự đã quy định cụ thể tội ra quyết định trái pháp luật, với các khung hình phạt nghiêm khắc gắn liền với mức độ thiệt hại và hậu quả xã hội gây ra. Việc nghiên cứu quy định này không chỉ giúp nhận diện đúng hành vi phạm tội mà còn làm rõ ranh giới pháp lý giữa trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm bồi thường và trách nhiệm hình sự trong hoạt động tố tụng.

1. Khái quát chung về tội ra quyết định trái pháp luật

Tội ra quyết định trái pháp luật là một trong những tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, được quy định tại Điều 371 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017, 2025), nhằm bảo đảm tính hợp pháp, khách quan và đúng đắn của các quyết định được ban hành trong hoạt động tố tụng và thi hành án. Bộ luật hình sự đặt ra trách nhiệm hình sự đối với người có thẩm quyền khi ban hành quyết định mà biết rõ là trái pháp luật, gây thiệt hại về tài sản hoặc xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, cá nhân, trong trường hợp hành vi đó chưa cấu thành các tội danh tư pháp khác.

“…

Điều 371. Tội ra quyết định trái pháp luật

1. Người nào có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng, thi hành án ra quyết định mà mình biết rõ là trái pháp luật gây thiệt hại về tài sản từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồnghoặc gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 368, 369, 370, 377 và 378 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu;
d) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án, người phải chấp hành án, người bị hại, đương sự mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
đ) Gây thiệt hại về tài sản từ 200.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;
e) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm:
a) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của các chủ thể liên quan mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
b) Dẫn đến các chủ thể liên quan tự sát;
c) Gây thiệt hại về tài sản 1.000.000.000 đồng trở lên.

4. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

2. Các yếu tố cấu thành tội ra quyết định trái pháp luật

Tội ra quyết định trái pháp luật được cấu thành bởi bốn yếu tố cơ bản của cấu thành tội phạm gồm khách thể, chủ thể, mặt khách quan và mặt chủ quan.

Trước hết, khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội bảo đảm cho hoạt động tố tụng và thi hành án được tiến hành đúng pháp luật, đồng thời bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và cá nhân.

Tiếp theo, chủ thể của tội phạm là chủ thể đặc biệt, chỉ bao gồm người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hoặc thi hành án, như Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán khi ra các quyết định tố tụng, Chấp hành viên thi hành án; những người không có thẩm quyền này thì không phải là chủ thể của tội phạm theo Điều 371 Bộ luật Hình sự.

Về mặt khách quan, tội phạm thể hiện ở hành vi ban hành quyết định trái pháp luật trong khi người ra quyết định biết rõ nội dung quyết định đó là trái quy định pháp luật, và hành vi này phải gây ra hậu quả là thiệt hại về tài sản từ 50 triệu đồng trở lên hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, cá nhân; đồng thời, hành vi không thuộc các trường hợp cấu thành tội phạm quy định tại các điều 368, 369, 370, 377 và 378 BLHS.

Cuối cùng, về mặt chủ quan, người phạm tội thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp, tức là nhận thức rõ quyết định của mình là trái pháp luật, thấy trước hậu quả có thể xảy ra nhưng vẫn cố ý ban hành quyết định đó. Chỉ khi hội tụ đầy đủ các yếu tố cấu thành nêu trên thì hành vi ra quyết định trái pháp luật mới bị coi là tội phạm và phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 371 Bộ luật Hình sự.

Tình huống minh họa: Trong giai đoạn điều tra vụ án, Điều tra viên A biết rõ không có căn cứ pháp luật để kê biên tài sản của bị can B vì tài sản đó không liên quan đến hành vi phạm tội. Tuy nhiên, A vẫn cố ý ra quyết định kê biên tài sản trái pháp luật, dẫn đến thiệt hại cho B với giá trị tài sản bị kê biên là 120 triệu đồng. Hành vi của Điều tra viên A là ra quyết định mà mình biết rõ là trái pháp luật, gây thiệt hại về tài sản từ 50 triệu đồng trở lên và đủ yếu tố cấu thành tội ra quyết định trái pháp luật theo Điều 371 Bộ luật Hình sự.

🌐Có thể xem thêm các dịch vụ pháp lý liên quan: Nếu bạn đang gặp vướng mắc cần hỗ trợ pháp lý ở các lĩnh vực khác, bạn có thể tham khảo hệ thống dịch vụ chuyên sâu của chúng tôi:

3.Các khung hình phạt của tội ra quyết định trái pháp luật

Điều 371 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017, 2025) quy định ba khung hình phạt chính và một hình phạt bổ sung đối với tội ra quyết định trái pháp luật, được xây dựng dựa trên mức độ nguy hiểm của hành vi và hậu quả gây ra.

Khung hình phạt cơ bản được quy định tại khoản 1 Điều 371, theo đó người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hoặc thi hành án ra quyết định mà mình biết rõ là trái pháp luật thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm, trong trường hợp gây thiệt hại về tài sản từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, cá nhân.

Khung hình phạt tăng nặng được quy định tại khoản 2 Điều 371, với mức phạt tù từ 02 năm đến 07 năm, áp dụng khi hành vi phạm tội có một trong các tình tiết định khung tăng nặng như: phạm tội có tổ chức; phạm tội từ hai lần trở lên; thực hiện hành vi đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ có thai hoặc người già yếu; gây rối loạn tâm thần và hành vi với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%; gây thiệt hại về tài sản từ 200 triệu đồng đến dưới 01 tỷ đồng hoặc gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

Khung hình phạt tăng nặng đặc biệt được quy định tại khoản 3 Điều 371, theo đó người phạm tội bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm nếu hành vi ra quyết định trái pháp luật gây ra hậu quả đặc biệt nghiêm trọng như làm rối loạn tâm thần và hành vi với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61% trở lên, dẫn đến người bị ảnh hưởng tự sát hoặc gây thiệt hại về tài sản từ 01 tỷ đồng trở lên. Bên cạnh các hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm, nhằm ngăn ngừa việc tiếp tục lợi dụng thẩm quyền để xâm phạm hoạt động tư pháp.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *