Trong hoạt động xét xử, bản án của Tòa án không chỉ quyết định số phận pháp lý của một con người mà còn là thước đo niềm tin của xã hội vào công lý. Tuy nhiên, khi Thẩm phán hoặc Hội thẩm cố ý ra bản án mà mình biết rõ là trái pháp luật, hậu quả không dừng lại ở một vụ án oan sai, mà còn gây tổn hại nghiêm trọng đến quyền con người, trật tự pháp luật và uy tín của nền tư pháp. Nhằm bảo vệ sự công bằng trong hoạt động xét xử, Bộ luật Hình sự đã quy định cụ thể tội ra bản án trái pháp luật, với các khung hình phạt nghiêm khắc lên đến 15 năm tù. Bài viết này sẽ phân tích toàn diện dấu hiệu pháp lý, khung hình phạt giúp người đọc hiểu rõ ranh giới giữa sai sót nghề nghiệp và hành vi phạm tội trong hoạt động xét xử.
1. Khái quát chung về tội ra bản án trái pháp luật
Tội ra bản án trái pháp luật được quy định tại Điều 370 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017, 2025), là một trong những tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, nhằm bảo vệ tính đúng đắn, công bằng và hợp pháp của hoạt động xét xử.
Bộ luật hình sự quy định rõ trách nhiệm hình sự đối với Thẩm phán, Hội thẩm khi cố ý ra bản án trái pháp luật, với các khung hình phạt nghiêm khắc tùy theo tính chất, mức độ và hậu quả của hành vi phạm tội. Cụ thể,
“…
Điều 370. Tội ra bản án trái pháp luật
1. Thẩm phán, Hội thẩm nào ra bản án mà mình biết rõ là trái pháp luật, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a) Phạm tội 02 lần trở lên;
b) Đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu;
c) Kết án oan người vô tội về tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng;
d) Bỏ lọt tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng; người phạm tội nghiêm trọng hoặc phạm tội rất nghiêm trọng;
đ) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của bị cáo, người bị hại, đương sự mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
e) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;
g) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm:
a) Kết án oan người vô tội về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
b) Bỏ lọt tội phạm đặc biệt nghiêm trọng hoặc người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng;
c) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của bị cáo, người bị hại, đương sự mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
d) Dẫn đến bị cáo, người bị hại, đương sự tự sát;
đ) Gây thiệt hại về tài sản 1.000.000.000 đồng trở lên.
4. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
…”
2. Các yếu tố cấu thành tội ra bản án trái pháp luật
Tội ra bản án trái pháp luật được cấu thành bởi đầy đủ bốn yếu tố: khách thể, chủ thể, mặt khách quan và mặt chủ quan của tội phạm.
Thứ nhất, khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội bảo đảm cho hoạt động xét xử của Tòa án được tiến hành đúng pháp luật, khách quan, công bằng; đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong tố tụng.
Thứ hai, chủ thể của tội phạm là chủ thể đặc biệt, chỉ bao gồm Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân – những người được Nhà nước trao quyền nhân danh Tòa án để xét xử và ra bản án; các chủ thể khác dù có tham gia vào hoạt động tố tụng cũng không thuộc phạm vi điều chỉnh của Bộ luật Hình sự.
Thứ ba, mặt khách quan của tội phạm thể hiện ở hành vi ra bản án trái pháp luật, trong đó người phạm tội biết rõ nội dung bản án là trái quy định pháp luật nhưng vẫn cố ý tuyên án, và hành vi này có thể gây ra các hậu quả nghiêm trọng như kết án oan người vô tội, bỏ lọt tội phạm, gây thiệt hại về tài sản hoặc xâm hại đến sức khỏe, tinh thần của các chủ thể tham gia tố tụng.
Cuối cùng, mặt chủ quan của tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội nhận thức rõ tính trái pháp luật của bản án, thấy trước hậu quả có thể xảy ra nhưng vẫn mong muốn hoặc chấp nhận cho hậu quả đó xảy ra. Chỉ khi hội tụ đầy đủ các yếu tố cấu thành nêu trên thì hành vi ra bản án trái pháp luật mới bị coi là tội phạm và phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 370 Bộ luật Hình sự.
Ví dụ minh họa: Trong quá trình xét xử vụ án hình sự về tội cướp tài sản, Thẩm phán A biết rõ bị cáo B không đủ yếu tố cấu thành tội phạm vì không có hành vi dùng vũ lực hay đe dọa dùng vũ lực theo quy định của Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, do động cơ cá nhân, Thẩm phán A vẫn tuyên B phạm tội cướp tài sản và ra bản án kết tội. Hành vi của Thẩm phán A là ra bản án mà mình biết rõ là trái pháp luật, đủ yếu tố cấu thành tội ra bản án trái pháp luật theo Điều 370 BLHS và phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
🌐Có thể xem thêm các dịch vụ pháp lý liên quan: Nếu bạn đang gặp vướng mắc cần hỗ trợ pháp lý ở các lĩnh vực khác, bạn có thể tham khảo hệ thống dịch vụ chuyên sâu của chúng tôi:
- Lĩnh vực Hôn nhân và Gia đình – Luật sư hôn nhân và Gia đình.
- Lĩnh vực Đất đai – Luật sư giỏi đất đai.
- Lĩnh vực Hình sự – Luật sư hình sự.
- Lĩnh vực Hành chính – Luật sư hành chính.
- Lĩnh vực lao động.
- Lĩnh vực Doanh nghiệp và Đầu tư
3.Các khung hình phạt của tội ra bản án trái pháp luật
Điều 370 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017, 2025) quy định ba khung hình phạt chính và một hình phạt bổ sung đối với tội ra bản án trái pháp luật, tương ứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi và hậu quả gây ra.
Khung hình phạt cơ bản được quy định tại khoản 1 Điều 370, theo đó Thẩm phán hoặc Hội thẩm ra bản án mà mình biết rõ là trái pháp luật thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
Khung hình phạt tăng nặng thứ nhất được quy định tại khoản 2 Điều 370, với mức phạt tù từ 05 năm đến 10 năm, áp dụng trong trường hợp phạm tội có các tình tiết định khung tăng nặng như: phạm tội nhiều lần; thực hiện hành vi đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ có thai, người già yếu; kết án oan người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm thuộc loại nghiêm trọng, rất nghiêm trọng; gây rối loạn tâm thần và hành vi với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%; gây thiệt hại về tài sản từ 500 triệu đồng đến dưới 1 tỷ đồng hoặc gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội (Ví dụ: Trong một vụ án hình sự gây dư luận lớn tại địa phương, Thẩm phán A biết rõ bị cáo B có đầy đủ chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội nghiêm trọng nhưng vẫn cố ý tuyên mức án không tương xứng, dẫn đến việc bị cáo được trả tự do ngay sau phiên tòa. Sau bản án này, người dân địa phương tụ tập phản đối, khiếu nại kéo dài, gây mất ổn định trật tự công cộng và làm suy giảm nghiêm trọng niềm tin của xã hội vào hoạt động xét xử. Trường hợp này, hành vi của Thẩm phán A được xác định là ra bản án trái pháp luật gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, thuộc tình tiết định khung tăng nặng theo khoản 2 Điều 370 Bộ luật Hình sự)
Khung hình phạt tăng nặng đặc biệt được quy định tại khoản 3 Điều 370, với mức phạt tù từ 10 năm đến 15 năm, áp dụng khi hành vi ra bản án trái pháp luật gây ra hậu quả đặc biệt nghiêm trọng như kết án oan người vô tội về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, bỏ lọt tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, gây rối loạn tâm thần và hành vi với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61% trở lên, dẫn đến người tham gia tố tụng tự sát hoặc gây thiệt hại về tài sản từ 01 tỷ đồng trở lên. Ngoài các hình phạt chính nêu trên, người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm, nhằm ngăn ngừa việc tiếp tục lợi dụng chức vụ tư pháp để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.

