Khi nào Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải từ chối tiến hành tố tụng theo Luật Tố tụng hành chính?

khi nao tham phan va hoi tham tu choi to tung

Không phải Thẩm phán hay Hội thẩm nào cũng được quyền xét xử mọi vụ án hành chính. Có những trường hợp luật buộc họ phải rút lui để đảm bảo tính công bằng và minh bạch. Tuy nhiên, nhiều người dân không nắm rõ điều này, dẫn đến thiệt thòi khi tham gia tố tụng. Với kinh nghiệm của một luật sư chuyên hành chính, tôi sẽ giúp bạn hiểu rõ khi nào Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân phải từ chối tiến hành tố tụng theo quy định pháp luật.

1. Cơ sơ pháp lý: Khi nào Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải từ chối tiến hành tố tụng?

Theo Điều 46 Luật Tố tụng hành chính 2015 được sửa đổi bởi Luật số 85/2025/QH15 ngày 25/06/2025, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải từ chối hoặc bị thay đổi trong một số trường hợp nhất định nhằm đảm bảo khách quan, công bằng và tránh xung đột lợi ích trong quá trình giải quyết vụ án hành chính.

2. Các trường hợp cụ thể Thẩm phán, Hội thẩm phải từ chối hoặc bị thay đổi

 Thứ nhất, trường hợp đã quy định tại Điều 45: Nếu Thẩm phán hoặc Hội thẩm có quyền lợi hoặc nghĩa vụ liên quan đến vụ án, hoặc có quan hệ thân thích với đương sự hoặc người tiến hành tố tụng khác, thì phải từ chối. (Khoản 1 Điều 46 dẫn chiếu Điều 45 Luật Tố tụng hành chính  2015)

Thứ hai, là người thân trong cùng Hội đồng xét xử: Nếu thẩm phán và Hội thẩm là người thân thích với nhau và cùng tham gia trong một Hội đồng xét xử thì chỉ một người được phép tiến hành tố tụng (Khoản 2 Điều 46)

Giả sử: Ông A là Thẩm phán, bà B là Hội thẩm nhân dân, cả hai được phân công tham gia cùng một Hội đồng xét xử vụ án hành chính về khiếu kiện quyết định thu hồi đất. Tuy nhiên, ông A và bà B là anh em ruột. Trong trường hợp này, vì có quan hệ thân thích, chỉ một trong hai người được trực tiếp tiến hành tố tụng, người còn lại bị thay đổi theo quy định.

Thứ ba, đã từng giải quyết vụ án trước đó: Nếu Thẩm phán, Hội thẩm đã tham gia xét xử vụ án đó trước đây (Sơ thẩm, Phúc thẩm, Giám đốc thẩm, Tái thẩm) và đã ra bản án, quyết định thì không được trực tiếp giải quyết vụ án này ở lần khác. Trường hợp nếu người đó là thành viên của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hoặc Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh/ cấp cao, họ vẫn có thể tham gia giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. (Khoản 3 Điều 46 được sửa đổi tại Khoản 8 Điều 2 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tố tụng hành chính 2025)

Ví dụ minh họa: Bà C từng là Thẩm phán xét xử Sơ thẩm vụ án hành chính về việc khiếu kiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính của UBND quận. Sau khi vụ án được kháng cáo, bà C tiếp tục được phân công tham gia Hội đồng xét xử Phúc thẩm. Trong trường hợp này, bà C phải từ chối tiến hành tố tụng tại cấp Phúc thẩm, vì đã từng ra bản án sơ thẩm liên quan vụ việc đó (trừ khi là thành viên của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao hoặc Ủy ban Thẩm phán theo luật định)

Thứ tư, đã từng là người tiến hành tố tụng khác trong vụ án: Nếu người đó trước đây từng tham gia vụ án với vai trò là Thư ký Tòa án, Thẩm tra viên, Kiểm sát viên hoặc Kiểm tra viên, thì cũng không được tiếp tục xét xử với tư cách Thẩm phán hoặc Hội thẩm

3. Mục đích và ý nghĩa của quy địnhThẩm phán, Hội thẩm phải từ chối hoặc bị thay đổi

Quy định tại Điều 46 Luật Tố tụng hành chính 2015 được đặt ra nhằm đảm bảo nguyên tắc khách quan, công bằng và minh bạch trong quá trình xét xử. Khi Thẩm phán hoặc Hội thẩm nhân dân có mối quan hệ lợi ích, quan hệ thân thích, hoặc đã từng tham gia giải quyết cùng vụ án ở giải đoạn trước, thì việc tiếp tục tham gia xét xử dễ dẫn đến thiên vị hoặc định kiến, ảnh hưởng đến tính độc lập của tòa án và quyền lợi của đương sự.

Việc bắt buộc phải từ chối hoặc thay đổi người tiến hành tố tụng trong những trường hợp này giúp:

  • Phòng tránh xung đột lợi ích trong hoạt động tư pháp;
  • Nâng cao niềm tin của người dân vào tính khách quan vô tư của cơ quan xét xử;
  • Bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên trong vụ án hành chính;  
  • Góp phần thực hiện hiệu quả nguyên tắc “mọi người đều bình đẳng trước pháp luật”.

Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để đảm bảo quyền được xét xử công bằng – một trong những quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật Việt Nam.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *