Pháp nhân thương mại bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi nào?

1. Khi nào pháp nhân thương mại bị truy cứu trách nhiệm hình sự?

Theo quy định tại Điều 75 Bộ luật Hình sự 2015, pháp nhân thương mại chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi hội đủ các điều kiện sau:

Thứ nhất, hành vi phạm tội phải được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại (điểm a). Điều này nghĩa là hành vi đó được thực hiện dưới tên gọi và danh nghĩa pháp lý của tổ chức – ví dụ như công ty ký hợp đồng hoặc ra quyết định thay mặt tổ chức.

Thứ hai, hành vi phạm tội phải vì lợi ích của pháp nhân thương mại (điểm b), tức là kết quả của hành vi phạm tội phải đem lại lợi ích tài chính, thương mại hoặc lợi thế nào đó cho chính tổ chức, chứ không chỉ cho cá nhân thực hiện.

Thứ ba, hành vi phải được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại (điểm c). Đây là yếu tố then chốt để xác định tính chủ động của tổ chức trong hành vi phạm tội, cho thấy tổ chức không chỉ là phương tiện, mà thực sự tham gia vào quá trình ra quyết định hoặc thỏa thuận phạm tội.

Thứ tư, hành vi đó phải còn trong thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 27 Bộ luật này (điểm d).

Ngoài ra, theo khoản 2 Điều 75, pháp luật còn quy định rằng: “Việc pháp nhân thương mại chịu trách nhiệm hình sự không loại trừ trách nhiệm hình sự của cá nhân.” Điều này đồng nghĩa với việc cả tổ chức và cá nhân liên quan đều có thể bị xử lý hình sự trong cùng một vụ án, nếu có đủ yếu tố cấu thành tội phạm tương ứng.

Ví dụ: Một công ty A chuyên sản xuất thực phẩm đã cố tình cho lưu hành sản phẩm kém chất lượng dù biết rõ vi phạm tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm. Hành vi này được quyết định bởi Giám đốc công ty, thực hiện thông qua bộ phận sản xuất và phân phối với mục đích giảm chi phí, tăng lợi nhuận. Trong trường hợp này:

Hành vi được thực hiện nhân danh công ty A (điểm a);

Vì lợi ích kinh tế của công ty (điểm b);

Có sự chỉ đạo trực tiếp của Giám đốc (điểm c);

Và vụ việc chưa hết thời hiệu xử lý hình sự (điểm d).

Như vậy, công ty A có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự, đồng thời Giám đốc công ty cũng có thể bị xử lý với tư cách cá nhân thực hiện hành vi phạm tội

2. Các tội danh mà pháp nhân thương mại có thể bị truy cứu

Theo Điều 76 Bộ luật Hình sự 2015, được sửa đổi bởi khoản 11 Điều 1 Luật sửa đổi BLHS 2017, pháp nhân thương mại có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các tội danh cụ thể, chủ yếu thuộc các nhóm sau:

Tội phạm kinh tế – tài chính: buôn lậu, trốn thuế, đầu cơ, gian lận bảo hiểm, vi phạm quy định về cạnh tranh, in – phát hành hóa đơn trái phép…

Tội phạm môi trường: gây ô nhiễm, vi phạm quy định về động vật hoang dã, đưa chất thải vào Việt Nam, hủy hoại nguồn lợi thủy sản…

Tội liên quan đến an toàn thực phẩm và hàng giả: sản xuất, buôn bán hàng giả là thực phẩm, thuốc, phụ gia, thức ăn chăn nuôi…

Tội xâm phạm an ninh, trật tự: tài trợ khủng bố, rửa tiền, thao túng thị trường chứng khoán, sử dụng thông tin nội bộ…

Danh mục tội danh này thể hiện định hướng của pháp luật hình sự trong việc kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp, đặc biệt trong các lĩnh vực dễ bị lợi dụng để trục lợi hoặc gây thiệt hại lớn cho xã hội (“Điều 76 BLHS 2015, sửa đổi bởi khoản 11 Điều 1 Luật sửa đổi BLHS 2017”).

Việc giới hạn phạm vi tội phạm mà pháp nhân thương mại có thể bị truy cứu nhằm tập trung xử lý các hành vi có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh, bảo vệ môi trường và quyền lợi xã hội, đồng thời phù hợp với bản chất pháp lý của pháp nhân.

Giả sử: Một công ty sản xuất hóa chất đã cố ý xả thải các chất độc hại vượt mức cho phép ra môi trường nhằm tiết kiệm chi phí xử lý chất thải. Hành vi này vi phạm quy định về bảo vệ môi trường và có thể cấu thành tội gây ô nhiễm môi trường theo Điều 235 Bộ luật Hình sự 2015. Trong trường hợp này, công ty có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với tư cách pháp nhân thương mại. Ngoài ra, các cá nhân lãnh đạo hoặc trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội cũng có thể bị xử lý riêng biệt theo quy định của pháp luật.

3. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại

Theo quy định tại Điều 85 Bộ luật Hình sự 2015 quy định cụ thể về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự áp dụng đối với pháp nhân thương mại. Theo đó, chỉ những tình tiết sau đây mới được coi là tăng nặng:

Thứ nhất, pháp nhân thương mại câu kết với các pháp nhân khác để phạm tội.

Thứ hai, cố ý thực hiện tội phạm đến cùng, không từ bỏ hành vi phạm tội.

Thứ ba, phạm tội hai lần trở lên hoặc tái phạm, đặc biệt là tái phạm nguy hiểm.

Thứ tư, lợi dụng các hoàn cảnh đặc biệt như chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn xã hội nghiêm trọng để thực hiện hành vi phạm tội.

Thứ năm, sử dụng thủ đoạn tinh vi nhằm phạm tội hoặc để trốn tránh, che giấu hành vi phạm tội (Điều 85, Bộ luật Hình sự 2015).

Ví dụ: một công ty sản xuất thực phẩm giả không chỉ phạm tội mà còn liên kết với nhiều công ty khác để tạo thành đường dây sản xuất quy mô lớn, đồng thời dùng các thủ đoạn tinh vi để che giấu nguồn gốc hàng hóa sẽ bị coi là có tình tiết tăng nặng, từ đó bị xử phạt nghiêm khắc hơn.

Ngược lại, những tình tiết đã được Bộ luật Hình sự quy định là dấu hiệu để định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự (khoản 2, Điều 85). Quy định này nhằm đảm bảo tính công bằng và minh bạch trong việc xử lý trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *