Khái quát về hình phạt tù chung thân
Theo quy định tại Điều 39 Bộ luật Hình sự 2015 (SĐ, BS 2017), “Tù chung thân là hình phạt tù không thời hạn được áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, nhưng chưa đến mức bị xử phạt tử hình. Không áp dụng hình phạt tù chung thân đối với người dưới 18 tuổi phạm tội”. Như vậy, tù chung thân là hình phạt nghiệm khắc thứ hai chỉ sau tử hình, đây là hình phạt không xác định thời hạn (khác với tù có thời hạn tối đa 30 năm) người phạm tội phải cải tạo trong trại giam suốt đời, trừ khi được giảm án.
Tù chung thân là hình phạt thay thế tử hình trong một số trường hợp và thể hiện sự khoan hồng có giới hạn của pháp luật. Đặc biệt, không áp dụng tù chung thân với người dưới 18 tuổi, dù họ phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Bởi vì, người dưới 18 tuổi đang trong giai đọan phát triển, dễ thay đổi, dễ giáo dục. Thêm nữa là, pháp luật hình sự Việt Nam có xu hướng giáo dục – phục hồi đối với người chưa thành niên, không trừng phạt tuyệt đối. Thay vào đó, họ có thể chịu mức tù có thời hạn thấp hơn và áp dụng các biện pháp tư pháp hoặc giáo dục bắt buộc.
Quy định pháp luật về việc giảm án đối với người bị kết án tù chung thân
Theo quy định tại Điều 63 Bộ luật Hình sự 2015 (SĐ, BS 2017) và Điều 5 Nghị quyết 03/2024/NQ-HĐTP,
Lần giảm án đầu tiên: Giảm từ tù chung thân xuống 30 năm tù: Đã chấp hành hình phạt tối thiểu 12 năm tù liên tục (hoặc 15 năm nếu bị kết án nhiều tội trong đó có tội bị tuyên án tù chung thân). Có nhiều tiến bộ thể hiện ở việc: Chấp hành tốt nội quy cơ sở giam giữ; Tích cực học tập, lao động, cải tạo; Được xếp loại khá trở lên ít nhất 16 quý liên tục trước thời điểm xét giảm án (04 năm). Đã bồi thường được ít nhất một phần nghĩa vụ dân sự (ít nhất 1/2 hoặc xác nhận miễn giảm từ người bị hại). Được cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền đề nghị bằng văn bản. Lưu ý, nếu người bị tuyên án tử hình và được giảm xuống tù chung thân, thì phải có ít nhất 20 quý liên tiếp được xếp loại từ khá trở lên mới được xét giảm lần đầu.
Các lần giảm án tiếp theo (sau khi đã được chuyển thành 30 năm tù): Mỗi năm xét giảm 01 lần, mỗi lần có thể giảm từ 01 tháng đến tối đa 03 năm (giảm 03 năm chỉ dành cho người có thành tích đặc biệt xuất sắc). Tổng thời gian chấp hành hình phạt sau tất cả các lần giảm không được thấp hơn 20 năm, nếu là người phạm nhiều tội trong đó có án tù chung thân, thời gian thực tế phải chấp hành là ít nhất 25 năm.
Những trường hợp không được xét giảm án đối với người bị kết án tù chung thân
Không đạt đủ số kỳ xếp loại “từ khá trở lên”
Việc xét giảm án yêu cầu người đang chấp hành án phải được xếp loại chấp hành án phạt tù từ khá trở lên trong một thời gian dài và liên tục. Với người bị kết án tù chung thân, điều kiện bắt buộc là phải đạt ít nhất 16 quý liên tiếp (tức 04 năm liền) được xếp loại khá trở lên trước thời điểm xét giảm.
Nếu không đạt đủ số quý theo yêu cầu hoặc bị gián đoạn trong quá trình cải tạo (ví dụ: quý nào đó bị xếp loại trung bình, yếu…), thì không đủ điều kiện để được xem xét giảm án.
Không bồi thường đầy đủ nghĩa vụ dân sự theo quy định
Một điều kiện bắt buộc khác để được xét giảm án là người bị kết án phải bồi thường ít nhất một phần hai nghĩa vụ dân sự đã được tuyên trong bản án (như thiệt hại về tài sản, chi phí y tế, tổn thất tinh thần…).
Nếu không thực hiện nghĩa vụ bồi thường hoặc chỉ bồi thường được rất ít mà không có xác nhận miễn/giảm từ phía người bị hại hoặc cơ quan có thẩm quyền, thì đây cũng là lý do bị loại khỏi diện xét giảm án.
Vi phạm kỷ luật trong trại giam
Người bị kết án tù chung thân nếu vi phạm nội quy, bị xử lý kỷ luật trong thời gian chấp hành án (như đánh nhau, gây rối, không chấp hành mệnh lệnh…), thì không được xét giảm án trong thời gian đó.
Ngay cả khi đã được giảm án trước đó, nếu tiếp tục vi phạm và bị kỷ luật, người này sẽ phải chấp hành thêm ít nhất 04 đến 05 quý liên tiếp xếp loại khá trở lên mới được xem xét trở lại.
Tái phạm tội mới trong thời gian chấp hành án
Nếu người đang chấp hành án tù chung thân thực hiện hành vi phạm tội mới, thì việc xét giảm án sẽ bị lùi lại hoặc kéo dài đáng kể, tùy theo mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội mới:
Trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng do cố ý: Người phạm tội phải chấp hành ít nhất một nửa mức hình phạt chung sau khi bị tổng hợp hình phạt mới với hình phạt đang chấp hành; Chỉ sau khi hoàn thành ít nhất 1/2 thời gian này và đáp ứng đủ các điều kiện khác mới được xét giảm.
Trường hợp phạm tội nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng: Người bị kết án phải chấp hành ít nhất 2/3 mức hình phạt chung, hoặc 25 năm tù nếu hình phạt chung là tù chung thân; Điều này đồng nghĩa với việc cơ hội được giảm án sẽ bị lùi rất xa.
Mặc dù người bị kết án tù chung thân vẫn có cơ hội được giảm án, nhưng đây không phải là quyền đương nhiên, mà phụ thuộc vào việc người đó cải tạo tốt, bồi thường thiệt hại đầy đủ, không vi phạm pháp luật hay kỷ luật trong thời gian chấp hành án. Các quy định nghiêm ngặt này nhằm đảm bảo rằng chỉ những người thực sự có tiến bộ rõ rệt, ăn năn hối cải và chấp hành tốt mới được hưởng sự khoan hồng của pháp luật.