Quy định về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn khi thi hành công vụ

lợi dụng chức vụ quyền hạn

Chỉ một quyết định “làm trái công vụ”, ký sai thẩm quyền hoặc giải quyết công việc vì động cơ cá nhân, người có chức vụ, quyền hạn cũng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với mức án lên đến 15 năm tù theo quy định của pháp luật. Vậy quy định về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn khi thi hành công vụ theo Bộ luật Hình sự hiện hành được xác định như thế nào, khi nào đủ yếu tố cấu thành tội phạm và các khung hình phạt ra sao? Bài viết dưới đây sẽ phân tích cụ thể các quy định pháp luật liên quan đến tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn khi thi hành công vụ.

1. Cơ sở pháp lý quy định về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn

Quy định về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ được ghi nhận tại Điều 356 Bộ luật Hình sự năm 2015 ( sửa đổi, bổ sung 2017, 2025) cụ thể như sau:

“…

Điều 356. Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ

1. Người nào vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái công vụ gây thiệt hại về tài sản từ 10.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồnghoặc gây thiệt hại khác đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a) Có tổ chức;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Gây thiệt hại về tài sản từ 200.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng.

3. Phạm tội gây thiệt hại về tài sản 1.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm.

4. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm, có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng.

Như vậy, Điều 356 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017, 2025) là căn cứ pháp lý đầy đủ để xác định hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ, đồng thời làm cơ sở áp dụng các khung hình phạt chính và hình phạt bổ sung đối với người phạm tội theo quy định của pháp luật hình sự hiện hành.

2. Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn là gì?

Theo quy định tại Điều 356 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017, 2025) tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng vị trí, thẩm quyền được giao để làm trái công vụ, qua đó gây thiệt hại về tài sản hoặc gây thiệt hại khác đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Bản chất của tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn là việc người có thẩm quyền sử dụng quyền lực được giao không đúng mục đích, không đúng quy định pháp luật nhằm phục vụ lợi ích cá nhân, bất chấp hậu quả có thể xảy ra. Hành vi này không chỉ gây thiệt hại về vật chất mà còn xâm phạm nghiêm trọng đến tính đúng đắn, khách quan và liêm chính của hoạt động công vụ, làm suy giảm uy tín của cơ quan, tổ chức Nhà nước và niềm tin của xã hội đối với đội ngũ cán bộ, công chức.

3. Các yếu tố cấu thành tội phạm

Để một hành vi bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ, cần phải thỏa mãn đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạm theo quy định của pháp luật, bao gồm:

Thứ nhất, về chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội phạm là người có chức vụ, quyền hạn, bao gồm cán bộ, công chức, viên chức hoặc người được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ nhất định. Người phạm tội phải đang thi hành công vụ và có thẩm quyền nhất định liên quan đến hành vi bị coi là làm trái công vụ.

Thứ hai, về khách thể của tội phạm: Hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức Nhà nước, đồng thời xâm hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân được pháp luật bảo vệ.

Thứ ba, về mặt khách quan của tội phạm: Mặt khách quan của tội phạm thể hiện ở hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để làm trái công vụ, tức là thực hiện hành vi không đúng thẩm quyền, không đúng trình tự, thủ tục hoặc trái với quy định pháp luật khi thực hiện nhiệm vụ được giao. Hành vi này phải gây thiệt hại về tài sản từ mức luật định hoặc gây thiệt hại khác đến lợi ích của Nhà nước, tổ chức, cá nhân và có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi làm trái công vụ và hậu quả xảy ra.

Thứ tư, về mặt chủ quan của tội phạm: Người phạm tội thực hiện hành vi với lỗi cố ý, nhận thức rõ việc làm trái công vụ là trái pháp luật nhưng vẫn thực hiện vì mục đích vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác. Đây là dấu hiệu bắt buộc để phân biệt tội này với các sai sót hành chính do thiếu trách nhiệm hoặc do lỗi vô ý.

Như vậy, chỉ khi hành vi có đầy đủ cả bốn yếu tố nêu trên thì mới đủ căn cứ xác định tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ theo quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành.

🌐Có thể xem thêm các dịch vụ pháp lý liên quan: Nếu bạn đang gặp vướng mắc cần hỗ trợ pháp lý ở các lĩnh vực khác, bạn có thể tham khảo hệ thống dịch vụ chuyên sâu của chúng tôi:

4. Các khung hình phạt đối với tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn

Theo quy định tại Điều 356 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017, 2025) căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi, giá trị thiệt hại và các tình tiết tăng nặng, tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ được áp dụng các khung hình phạt sau đây:

Thứ nhất, khung hình phạt cơ bản: Người phạm tội có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm nếu vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái công vụ, gây thiệt hại về tài sản từ 10.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại khác đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Thứ hai, khung hình phạt tăng nặng: Mức phạt tù từ 05 năm đến 10 năm được áp dụng đối với trường hợp phạm tội có tổ chức, phạm tội từ 02 lần trở lên, hoặc gây thiệt hại về tài sản từ 200.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng.

Thứ ba, khung hình phạt đặc biệt nghiêm trọng: Người phạm tội bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm nếu hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ gây thiệt hại về tài sản từ 1.000.000.000 đồng trở lên.

Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung, bao gồm cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm và phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, nhằm ngăn ngừa việc tiếp tục lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây thiệt hại cho xã hội.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *