Có thể nói, giao dịch dân sự được bao trùm lên toàn bộ đời sống của xã hội. Để một giao dịch dân sự không bị vô hiệu về hình thức và nội dung thì việc xác lập các giao dịch dân sự đó phải thỏa mãn các điều kiện. Bài viết dưới đây cung cấp một số thông tin pháp lý liên quan đến một giao dịch dân sự bị vô hiệu.
1. Giao dịch dân sự vô hiệu là gì?
Theo qui định tại Điều 122 Bộ luật Dân sự năm 2015:
Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 117 của Bộ luật này thì vô hiệu, trừ trường hợp Bộ luật này có quy định khác.
Theo qui định tại điều 117 của Bộ luật dân sự năm 2015 thì các điều kiện về hình thức gồm:
Về chủ thể:
Người thực hiện giao dịch dân sự phải đáp ứng điều kiện, có năng lực hành vi dân sự (nếu là cá nhân) và năng lực pháp luật dân sự (nếu là pháp nhân) phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập và phải hoàn toàn tự nguyện.
Ví dụ: người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi khi thực hiện các giao dịch dân sự liên quan đến các giao dịch là bất động sản phải được sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật.
Yêu cầu về việc tự nguyện khi tham gia giao dịch dân sự nhằm đáp ứng nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự được nêu tại Điều 3 Bộ luật Dân sự năm 2015. Cụ thể, mọi việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự đều phải dựa trên cơ sở của tự do, tự nguyện cam kết và thỏa thuận.
Về nội dung, mục đích của giao dịch dân sự:
Giao dịch dân sự phải không thuộc trường hợp vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. Một trong các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự cũng yêu cầu các thỏa thuận mà cá nhân, tổ chức thực hiện cũng không được vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
Trong đó, mục đích của giao dịch dân sự là lợi ích mà các bên tham gia giao dịch dân sự đó muốn đạt được khi xác lập giao dịch dân sự; Điều cấm của luật và đạo đức xã hội được quy định tại Điều 123 Bộ luật Dân sự năm 2015:
Điều cấm của luật là những quy định của luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định.
Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.
Do đó, nếu vi phạm những việc pháp luật không cho phép làm, vi phạm chuẩn mực ứng xử chung của đời sống xã hội thì giao dịch dân sự đó sẽ vô hiệu.
2. Giao dịch dân sự vô hiệu về hình thức:
Nếu luật yêu cầu giao dịch dân sự phải đáp ứng điều kiện về hình thức thì để có hiệu lực, giao dịch đó phải đáp ứng quy định này.
Về hình thức của giao dịch dân sự, Điều 119 Bộ luật Dân sự quy định gồm ba hình thức là bằng lời nói, bằng văn bản trong đó có thể hiện bằng phương tiện điện tử cũng được coi là giao dịch dân sự bằng văn bản và bằng hành cụ thể.
Ví dụ: Hợp đồng mua bán căn hộ chung cư, theo khoản 1 Điều 122 Luật Nhà ở năm 2014 phải công chứng. Do đó, vì Luật đất đai yêu cầu hợp đồng mua bán chung cư phải được lập thành văn bản, có công chứng của tổ chức hành nghề công chứng nên nếu các bên mua bán chung cư mà không công chứng thì giao dịch này sẽ bị vô hiệu.
các trường hợp giao dịch dân sự bị vô hiệu theo qui định của pháp luật:
- Do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội.
- Do giả tạo.
- Do vi phạm quy định về chủ thể.
- Do bị nhầm lẫn khiến mục đích của việc xác lập giao dịch đó không đạt được.
- Do bị lừa dối, cưỡng ép, đe dọa.
- Do người không nhận thức, làm chủ hành vi lập.
- Do không tuân thủ quy định về hình thức. Ở trường hợp này, giao dịch dân sự vô hiệu về hình thức.
- Khi giao dịch dân sự bị vô hiệu thì giao dịch đó sẽ không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền cũng như nghĩa vụ của các bên. Thời điểm được xác định là kể từ khi xác lập giao dịch đó.