1. Tử hình là gì?
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 40 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), tử hình là hình phạt đặc biệt, chỉ được áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, thuộc một trong các nhóm tội như: xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm tính mạng con người, tội phạm về ma túy, tham nhũng, và một số tội đặc biệt nghiêm trọng khác theo quy định của Bộ luật này.
Cụ thể, tử hình là hình phạt nghiêm khắc nhất trong hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam, dành cho những hành vi phạm tội có tính chất và mức độ nguy hiểm đặc biệt lớn đối với xã hội. Các tội danh bị áp dụng hình phạt này thường nằm trong khung hình phạt có mức cao nhất là trên 15 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
2. Quy định phụ nữ mang thai hoặc nuôi con nhỏ theo Bộ luật Hình sự 2015
Theo quy định tại Điều 40 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), phụ nữ mang thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi là một trong những đối tượng được pháp luật đặc biệt bảo vệ khi xem xét hình phạt tử hình. Cụ thể, khoản 2 điều luật này quy định không áp dụng hình phạt tử hình đối với phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con nhỏ tại thời điểm phạm tội hoặc khi xét xử. Điều đó có nghĩa là, dù hành vi phạm tội có nghiêm trọng đến mức nào, nếu người phụ nữ thuộc một trong hai trường hợp nêu trên thì cũng không bị tuyên án tử hình.
Bên cạnh đó, khoản 3 Điều 40 tiếp tục khẳng định rằng nếu người bị kết án tử hình sau đó được xác định đang mang thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, thì hình phạt tử hình cũng không được thi hành, mà sẽ được chuyển thành tù chung thân theo quy định tại khoản 4. Những quy định này thể hiện rõ chính sách hình sự mang tính nhân đạo của pháp luật Việt Nam, đồng thời đảm bảo quyền lợi và sự phát triển toàn diện của trẻ em (những đối tượng không có lỗi nhưng có liên quan trực tiếp đến người phạm tội).
Như vậy, phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi không bị áp dụng và cũng không bị thi hành án tử hình trong bất kỳ giai đoạn nào của quá trình tố tụng hình sự.
3. Phụ nữ đang nuôi con nhỏ có được miễn thi hành án không?
Theo quy định tại Điều 119 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 và Điều 40, 67 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017),
Thì có thể khẳng định rằng phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi không được miễn hoàn toàn trách nhiệm hình sự, nhưng được pháp luật ưu tiên áp dụng chính sách nhân đạo, thông qua các biện pháp như: không thi hành án tử hình, không bị tạm giam, hoặc được hoãn chấp hành hình phạt tù tùy vào từng giai đoạn tố tụng và loại hình phạt:
3.1 Trường hợp bị kết án tử hình:
Pháp luật quy định không thi hành án tử hình đối với phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi. Cụ thể, theo khoản 3 Điều 40, quy định: “Không thi hành án tử hình đối với người bị kết án nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi;”
Như vậy, nếu người phụ nữ bị kết án tử hình mà đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi tại thời điểm thi hành án, thì không bị xử tử, mà hình phạt sẽ được chuyển thành tù chung thân theo khoản 4 Điều 40: “Trong trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này… thì hình phạt tử hình được chuyển thành tù chung thân.”
3.2 Trường hợp đang trong giai đoạn điều tra, truy tố hoặc xét xử (chưa có bản án)
Trong giai đoạn tố tụng, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi có thể không bị áp dụng biện pháp tạm giam, nếu có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng. Cụ thể, theo khoản 4 Điều 119, quy định:“Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi… thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ các trường hợp…”
Tuy nhiên, vẫn có ngoại lệ nếu thuộc các trường hợp như: bỏ trốn, tiếp tục phạm tội, có hành vi cản trở điều tra, hoặc phạm tội liên quan đến an ninh quốc gia.
3.3 Trường hợp đã bị kết án tù (không phải tử hình)
Nếu người phụ nữ đang nuôi con nhỏ bị tuyên án tù, nhưng không phải tử hình, thì có thể được hoãn chấp hành hình phạt tù. Theo điểm b, khoản 1, Điều 67 quy định:“Phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, thì được hoãn cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi.” Nghĩa là: người phụ nữ vẫn phải chấp hành hình phạt tù, nhưng được tạm hoãn cho đến khi con đủ 3 tuổi.
Như vậy, pháp luật không miễn hoàn toàn việc thi hành án đối với phụ nữ đang nuôi con nhỏ, nhưng đặt ra các biện pháp nhân đạo ở cả ba giai đoạn: Không bị thi hành án tử hình (khoản 3 Điều 40); Không bị tạm giam nếu đủ điều kiện ( khoản 4 Điều 119); Được hoãn chấp hành án tù cho đến khi con đủ 36 tháng ( điểm b khoản 1 Điều 67). Qua đó, có thể thấy chính sách hình sự Việt Nam không chỉ hướng đến công lý mà còn đảm bảo quyền lợi của trẻ em và thể hiện tính nhân đạo sâu sắc.