Người đang có vợ/chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác sẽ bị xử lý thế nào?

chung sống như vợ chồng với người khác

Ngoại tình hay chung sống như vợ chồng với người khác khi đã có gia đình không chỉ là nỗi đau tinh thần mà còn có thể kéo theo trách nhiệm pháp lý nghiêm trọng. Liệu hành vi này sẽ bị xử phạt hành chính hay truy cứu trách nhiệm hình sự? Với kinh nghiệm giải quyết nhiều vụ án thực tế, luật sư hình sự của Hãng luật Anh Đào và Cộng sự sẽ giúp bạn hiểu rõ quy định tại Bộ luật Hình sự và cách bảo vệ quyền lợi của mình.

1. Cơ sở pháp lý về chế độ hôn nhân một vợ, một chồng

Pháp luật khẳng định chế độ hôn nhân một vợ, một chồng là nguyên tắc cơ bản và bắt buộc trong quan hệ gia đình. Cụ thể, Khoản 1 Điều 2 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định:

Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng

Đây là nền tảng để bảo vệ sự bền vững của gia đình, ngăn chặn tình trạng đa thê, ngoại tình, sống chung trái pháp luật.

Đồng thời, hành vi vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng sẽ bị xử phạt hành chính. Theo Điều 59 Nghị định 82/2020/NĐ-CP, một trong các hành vi bị xử phạt là:

“…

1. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:

a) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà kết hôn với người khác, chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;

b) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác;

c) Chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;

d) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;

đ) Cản trở kết hôn, yêu sách của cải trong kết hôn hoặc cản trở ly hôn.

. Mức xử phạt được ấn định là từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng.

Trong trường hợp hành vi gây hậu quả nghiêm trọng, cá nhân vi phạm còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Điều 182 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2025) nêu rõ:

1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:

a) Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn;

b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát;

b) Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó.

…”

Trường hợp làm cho quan hệ hôn nhân dẫn đến ly hôn, hoặc đã bị xử phạt hành chính mà tái phạm, hay nghiêm trọng hơn như làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát thì hình phạt có thể lên đến 03 năm tù.

Như vậy, cơ sở pháp lý hiện hành vừa khẳng định rõ nguyên tắc hôn nhân một vợ, một chồng, vừa có chế tài xử lý cụ thể đối với hành vi vi phạm, từ xử phạt hành chính cho đến truy cứu trách nhiệm hình sự.

2. Xử lý hành chính đối với hành vi chung sống như vợ chồng trái pháp luật

Trước khi bị xem xét trách nhiệm hình sự, hành vi chung sống như vợ chồng trái pháp luật sẽ bị xử lý bằng biện pháp hành chính. Theo Điều 59 Nghị định 82/2020/NĐ-CP, một trong các hành vi vi phạm bị xử phạt là: “Đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác; chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ”. Đối với hành vi này, pháp luật quy định mức phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng.

Ngoài ra, Nghị định 82 còn xác định những trường hợp nghiêm trọng hơn như kết hôn hoặc chung sống giữa những người có quan hệ huyết thống trong phạm vi ba đời, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi… thì mức phạt có thể tăng lên từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng.

Như vậy, xử phạt hành chính đóng vai trò là biện pháp răn đe ban đầu, buộc người vi phạm phải chấm dứt hành vi trái pháp luật. Tuy nhiên, nếu sau khi đã bị xử phạt mà vẫn tái phạm, hoặc gây ra hậu quả nghiêm trọng như làm tan vỡ hạnh phúc gia đình dẫn đến ly hôn, thì người vi phạm có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 182 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2025).

3. Trách nhiệm hình sự theo Điều 182 Bộ luật Hình sự 2015(sửa đổi, bổ sung 2025)

Trong trường hợp hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng gây ra hậu quả nghiêm trọng hoặc đã từng bị xử phạt hành chính mà vẫn tái phạm, người vi phạm có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Cụ thể, Điều 182 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2025) quy định:

1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:
a) Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn;
b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.

Ngoài ra, luật còn quy định tình tiết tăng nặng với mức phạt cao hơn:

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: a) Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát;
b) Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó.

Như vậy, tùy theo mức độ và hậu quả, người đang có vợ hoặc chồng mà vẫn chung sống như vợ chồng với người khác không chỉ dừng lại ở xử phạt hành chính mà còn có thể phải chịu hình phạt tù lên tới 03 năm. Đây là chế tài nghiêm khắc nhằm bảo vệ chế độ hôn nhân một vợ, một chồng và giữ gìn sự ổn định của gia đình.

4. Người chưa có vợ/chồng nhưng chung sống với người đã có gia đình có bị xử lý không?

Không chỉ người đang có vợ hoặc chồng mới bị xử lý, mà ngay cả người chưa có vợ/chồng nhưng biết rõ đối phương đã có gia đình mà vẫn cố tình chung sống như vợ chồng cũng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Quy định này đã được nêu rõ tại Điều 182 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2025), nhằm xử lý đồng bộ cả hai phía, tránh tình trạng “người thứ ba” tiếp tay phá vỡ hạnh phúc gia đình người khác.

Trong thực tế, nhiều vụ việc ngoại tình, chung sống trái pháp luật đã dẫn đến ly hôn, kéo theo tranh chấp tài sản chung, đặc biệt là đất đai, nhà ở. Khi đó, ngoài vấn đề hình sự, các bên còn phải đối diện với những tranh chấp dân sự phức tạp. Lúc này, sự hỗ trợ của luật sư hình sự sẽ giúp xác định rõ trách nhiệm pháp lý đối với hành vi vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng; đồng thời, sự tư vấn của luật sư đất đai lại cần thiết để giải quyết việc phân chia tài sản là nhà đất, bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho mỗi bên sau khi ly hôn.

Như vậy, người chưa có gia đình nhưng vẫn “chung sống” với người đã có vợ hoặc chồng không chỉ phải chịu trách nhiệm pháp lý theo luật hình sự mà còn có thể liên quan gián tiếp đến các tranh chấp tài sản, đòi hỏi sự tham gia phối hợp của cả luật sư hình sự và luật sư đất đai để bảo vệ quyền lợi của những người liên quan.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *