Trong cuộc sống, không phải lúc nào mọi việc cũng diễn ra theo đúng kế hoạch. Đôi khi, người được chỉ định thừa kế lại không còn hoặc không thể thực hiện quyền thừa kế của mình do mất tích hoặc đã qua đời trước thời điểm mở thừa kế. Vậy pháp luật Việt Nam quy định như thế nào về vấn đề này? Bài viết này sẽ phân tích chi tiết các quy định pháp luật liên quan đến thừa kế trong trường hợp người thừa kế là người mất tích hoặc đã chết, bao gồm việc xác định thời điểm mở thừa kế, quyền của những người thừa kế khác, và các vấn đề pháp lý phát sinh.
1. Quy định chung về thừa kế
Trước khi đi vào các trường hợp cụ thể, cần nắm vững một số quy định chung về thừa kế theo Bộ luật Dân sự (BLDS) 2015:
Thừa kế theo di chúc: Là việc chuyển giao tài sản của người chết cho người khác theo ý chí của người đó được thể hiện trong di chúc.
Thừa kế theo pháp luật: Là việc chuyển giao tài sản của người chết cho những người thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự do pháp luật quy định, nếu không có di chúc hoặc di chúc không hợp lệ.
Thời điểm mở thừa kế: Là thời điểm người có tài sản chết. Trong trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định trong bản án, quyết định của Tòa án.
2. Thừa kế khi người thừa kế đã chết trước thời điểm mở thừa kế
Theo quy định tại Điều 613 BLDS 2015, người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế. Nếu người thừa kế đã chết trước thời điểm mở thừa kế, họ sẽ không có quyền hưởng di sản, phần di sản dành cho người đó sẽ được chia theo pháp luật.
3. Thừa kế khi người thừa kế bị tuyên bố mất tích
Việc một người bị Tòa án tuyên bố mất tích sẽ ảnh hưởng đến quyền thừa kế của người đó. Theo quy định tại Điều 68 BLDS 2015, một người bị tuyên bố mất tích khi đáp ứng các điều kiện sau:
Khi một người biệt tích 02 năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án có thể tuyên bố người đó mất tích.
Thời hạn 02 năm được tính từ ngày biết được tin tức cuối cùng về người đó; nếu không xác định được ngày có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối cùng; nếu không xác định được ngày, tháng có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có tin tức cuối cùng.
Trước khi Tòa án tuyên bố một người mất tích, người đó vẫn được coi là còn sống, nhưng không có mặt tại nơi cư trú. Do đó, quyền thừa kế của người mất tích vẫn được bảo lưu.
Nếu có di chúc: Phần di sản dành cho người mất tích sẽ được quản lý theo quy định tại Điều 69 BLDS 2015. Người quản lý tài sản sẽ có trách nhiệm bảo quản, quản lý tài sản và giao lại cho người mất tích khi người đó trở về.
Nếu không có di chúc: Phần di sản dành cho người mất tích cũng sẽ được quản lý tương tự. Những người thừa kế khác có thể nhận phần di sản của mình, nhưng phải có trách nhiệm bảo quản phần di sản dành cho người mất tích cho đến khi người đó trở về.
4. Thừa kế khi người thừa kế bị tuyên bố là đã chết
Theo quy định tại Điều 71 BLDS 2015, một người có thể bị Tòa án tuyên bố là đã chết trong các trường hợp sau:
Sau 03 năm, kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án có hiệu lực pháp luật mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống;
Biệt tích trong chiến tranh sau 05 năm, kể từ ngày chiến tranh kết thúc mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống;
Bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai mà sau 02 năm, kể từ ngày tai nạn hoặc thảm hoạ, thiên tai đó chấm dứt vẫn không có tin tức xác thực là còn sống, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
Biệt tích 05 năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống; thời hạn này được tính theo quy định tại khoản 1 Điều 68 của Bộ luật này.
Khi Tòa án tuyên bố một người là đã chết, thời điểm mở thừa kế đối với người đó là ngày được xác định trong bản án, quyết định của Tòa án. Kể từ thời điểm này, người đó không còn quyền hưởng di sản nữa.
5. Quyền của những người thừa kế khác
Trong các trường hợp trên, những người thừa kế khác vẫn có quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. Tuy nhiên, họ cần phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ liên quan đến việc quản lý, bảo quản di sản, và phân chia di sản theo đúng quy định của pháp luật.
Việc thừa kế trong trường hợp người thừa kế là người mất tích hoặc đã chết là một vấn đề pháp lý phức tạp, đòi hỏi người dân phải nắm vững các quy định của pháp luật để thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình. Để đảm bảo quyền lợi và tránh các rủi ro pháp lý, bạn nên tham khảo ý kiến của luật sư hoặc chuyên gia tư vấn pháp luật khi có các vấn đề phát sinh liên quan đến thừa kế.
Trên đây là những chia sẻ về quy định pháp luật về việc thừa kế khi người thừa kế mất tích hoặc đã chết, nếu các bạn muốn hiểu sâu hơn về vấn đề này hoặc các vấn đề khác có liên quan, xin vui lòng liên hệ với chúng tôi để được đội ngũ luật sư chuyên về lĩnh vực thừa kế của Công ty TNHH Hãng Luật Anh Đào và Cộng sự tư vấn chuyên sâu hơn. Xin chân thành cảm ơn!
CÔNG TY TNHH HÃNG LUẬT ANH ĐÀO VÀ CỘNG SỰ
Hotline: 0932.049.492
Email: gvndtb1992@gmai